Thứ Sáu, 12 tháng 6, 2015

Triết lý “Thằng Bờm”



Chu Thập
5.6.15

Không biết cuộc khủng hoảng tại Biển Đông sẽ kết thúc như thế nào. Chỉ có điều không thể chối cãi là đối với thế giới hiện nay, Trung Cộng quả là thứ rắn độc đáng sợ và đáng ghét nhứt trong đời. Trong cuốn sách có tựa đề “Death by China” (chết vì Trung Quốc), xuất bản năm 2011, Giáo sư Kinh tế Mỹ Peter Navarro đã gióng lên hồi chuông báo động về không biết bao nhiêu thứ nọc độc mà quốc gia cộng sản này đang gieo rắc trên khắp thế giới.
Mới đây, có lẽ cũng muốn cảnh giác người dân Úc về sự đe dọa của Trung Cộng, một người dân thường Úc ở Sydney tên là Nick Folkes đã đi từng nhà để bỏ vào các thùng thơ một tờ “truyền đơn” có tựa đề “Sự xâm lăng của Trung Quốc tại Úc Đại Lợi” (Chinese invasion in Australia). Trong tờ truyền đơn, ông Folkes cho rằng “những người Úc đã phải vất vả cực nhọc nay đang bị đẩy ra bên lề các đô thị, trong khi đó những tên ngoại quốc lạ mặt lại đang gặt hái những thành quả của những thế hệ đã phải làm việc cực nhọc”. Một cách cụ thể, ông Folkes nhấn mạnh đến hiện tượng người Trung Quốc đang đầu tư vào thị trường địa ốc Úc để đẩy giá nhà lên, khiến cho người dân Úc, nhứt là các gia đình trẻ phải khốn đốn và hoang mang trong việc mua nhà. Các số liệu cho thấy trong thời gian gần đây người Trung Quốc đầu tư vào thị trường địa ốc của Úc Đại Lợi nhiều hơn tại Luân Đôn và Nữu Ước. Nhiều người đang lo sợ về một thứ bong bóng địa ốc do Trung Quốc bơm lên và muốn cho xì lúc nào tùy ý.
Các chính trị gia, có lẽ do cái nhìn xa và nghĩ đến đại cuộc nhiều hơn chăng, cho rằng những lời cảnh cáo của ông Folkes là “ngu xuẩn”. Cá nhân tôi không biết thực sự hiện đang có một “sự xâm lăng của Trung Quốc tại Úc Đại Lợi ” không và mức độ đe dọa ấy có đáng kể không. Chỉ biết rằng rất nhiều người trẻ mà tôi có dịp nói chuyện với đều tỏ ra lo ngại về tương lai của họ. Cụ thể, mua được một căn nhà dường như không còn nằm trong tầm tay của họ nữa. Bên cạnh mối lo đó, cuộc sống ở các đô thị ngày càng trở nên khó khăn hơn khiến cho nhiều người dễ rơi vào căng thẳng và trầm cảm.
Cứ mỗi lần về Sydney, tôi lại nhận ra sự căng thẳng của người dân đô thị xuyên qua cách lái xe của họ. Không bóp còi để “chửi xéo” người khác thì cũng lấn đường một cách hung hãn. Như mới hôm Chúa nhựt vừa qua chẳng hạn, trên con đường từ chợ Flemington về Hornsby, tôi lái xe trong tình trạng căng thẳng tột cùng: nhìn phía trước để giữ một khoảng cách hợp lý, lại còn phải nhìn ra sau để đề phòng những kẻ lấn đường muốn qua mặt hay bám sát vào mình. Một tài xế mà tôi đoán không quá 30 tuổi ở phía sau tôi không ngừng làm động tác ấy. Lúc thì anh cố tình sấn vào xe tôi, lúc thì anh lượn qua lượn lại để tìm đường qua mặt. Nhìn trong kính chiếu hậu, tôi thấy thật tội nghiệp cho anh. Tôi cũng tội nghiệp cho cây thánh giá treo lng lẳng trong xe của anh. Tôi nghĩ bụng: Chúa Giêsu lại bị một tín hữu Ki tô bắt vác thập giá một lần nữa!
Tôi không muốn quơ đũa cả nắm để bảo rằng người dân đô thị nào cũng hung hãn khi lái xe. Nhưng tôi tin chắc rằng cuộc sống ở đô thị, so với thôn quê của tôi, dễ khiến cho thần kinh của con người bị căng thẳng. Mới đây, nhứt là khi đồng tiền Úc còn ngang nga với đồng Mỹ kim, người ta bảo rằng dân Úc giàu nhứt thế giới: nhà cửa đắt, cái gì cũng mắc mỏ. Ngoài ra, theo thống kê, Úc Đại Lợi cũng được xếp vào hạng nhứt thế giới về cuộc sống đô thị hóa: có đến 70 phần trăm dân Úc sống ở đô thị!
Chỗ tôi ở cũng đã được đô thị hóa. Với những tiện nghi đang có, tôi thấy cuộc sống của mình cũng chẳng khác bao nhiêu so với cuộc sống tại những thành phố lớn của Úc. Nhưng nếu nói về khung cảnh thiên nhiên, thì tôi lại cảm thấy mình được ưu đãi hơn. Và dĩ nhiên, những người “đồng hương” mới của tôi cũng ít bị căng thẳng hơn. Mới đây, một cặp vợ chồng trẻ người thân của tôi từ Sydney về nghỉ cuối tuần với chúng tôi. Sau một ngày và một đêm được hít thở không khí trong lành, tránh được sự ô nhiễm về âm thanh, quên đi những căng thẳng của cuộc sống xô bồ, thưởng thức những món ăn thanh đạm từ hoa trái, rau quả do tôi trồng trọt và trứng gà do mấy chị gà mái sau nhà sản xuất, hai anh chị nói rằng họ như được “tĩnh tâm” (retreat) và nạp lại năng lực để trở về chiến đấu với cuộc sống xô bồ ở thành thị.
Con người ta ai cũng thích cuộc sống văn minh vật chất và những tiện nghi do kỹ thuật mang lại. Nhưng dường như “đi loanh quanh cho mỏi mệt” rồi cuối cùng ai cũng muốn quay về với cuộc sống đơn giản ở chốn thôn dã. Trước kia, thế giới hăm hở với những kỹ thuật chăn nuôi và canh tác với năng xuất cao: cái gì cũng “công nghệ” và sản xuất hàng loạt. Hoa quả được đổi “gen” di truyền ê hề. Nay người ta lại đua nhau trở về với những sản phẩm được canh tác và chăn nuôi theo phương pháp cổ điển: hễ có nhãn hiệu “organic” (hữu cơ) hay “heirloom” (cây giống nguyên thủy) là được ưa chuộng. Đúng là “đi loanh quanh” cho đã để rồi cuối cùng cũng quay về “chốn cũ”, tức trở về với cuộc sống dân dã và đơn giản! Người nông dân và dân dã với cuộc sống yên hàn, bình lặng, ít căng thẳng vẫn giữ được sự minh triết mà thị dân luôn thèm khát.
Tối thứ Hai 1/6/15 vừa qua, xem chương trình vòng quanh thế giới do Phóng viên Simon Reeve của Đài BBC thực hiện, tôi nhận ra được sự minh triết ấy. Trong chặng dừng chân tại vùng đảo Caribê bên Châu Mỹ La Tinh, Phóng viên Reeves cho xem cuộc sống “thiên đàng” tại đảo Barbados. Trước đây, hòn đảo này chỉ là một nơi thuộc loại chó ăn đá gà ăn muối dành cho đám dân chài nghèo. Vậy mà nay, hầu hết cư dân và khách du lịch đều thuộc giới quý tộc giàu có trên khắp thế giới. Người nghèo bán đất lấy tiền để đi tìm một cuộc sống tốt hơn tại một nơi khác. Duy chỉ có một người dứt khoát không chịu rời bỏ thiên đàng này. Ông cho biết trước đây bà nội của ông đã mua mảnh đất nơi ông đang ở với giá 24 Mỹ kim. Căn nhà “từ đường” của ông quả là một nỗi “ô nhục” cho những ngôi biệt thự và khách sạn hoành tráng trên đảo. Đã có người sẵn sàng mua miếng đất với giá 8 triệu Mỹ kim. Nhưng người thừa kế của miếng đất và ngôi nhà lụp xụp này không cần tiền. Ông giải thích rằng bên kia thế giới 8 triệu Mỹ kim đó chẳng có ý nghĩa gì cả. Người nghèo này hẳn có một sự khôn ngoan mà người giàu có không thể có được.
Tư cách của người đàn ông da đen nghèo tại đảo Barbados trên đây không thể không gợi lại cho tôi hình tượng của “Thằng Bờm” trong bài ca dao quen thuộc của người Việt Nam. “Thằng Bờm có cái quạt mo...”. Có đứa trẻ Việt Nam nào, trong những bài học vỡ lòng, mà không thuộc lòng bài ca dao này. Lúc nhỏ, đọc làu làu, tôi không mấy để ý đến cái “triết lý Thằng Bờm”. Có người cho rằng “Thằng Bờm có cái quạt mo...” là một bài ca dao nhắm đến hạng người tham cái lợi nhỏ trước mắt mà bỏ cái lợi lớn lâu dài. “Phú ông” đưa ra những tài sản kếch xù như “ba bò chín trâu” hoặc như “bè gỗ lim” để chỉ đổi lấy cái quạt mo. Vậy mà “Thằng Bờm” đã từ chối bởi vì nó không biết được giá trị của những tài sản ấy. Đi từ những tài sản kếch xù để dần dần tiến tới những thứ đơn giảm kém giá trị hơn như “xâu cá mè” hay “đôi chim mồi”, vậy mà “phú ông” cũng không thể thuyết phục được “Thằng Bờm”, bởi vì đối với nó, những thứ ấy chưa phải là thức ăn có thể ăn liền. Chỉ có “nắm xôi” mới mua được nụ cười mãn nguyện của “Thằng Bờm”. Một số học giả cho rằng đó là triết lý sống của những người chọn lấy cái có thể ăn ngay, mà bỏ qua tất cả những gì phải có thời gian chờ đợi mới có thể phát sinh lợi ích. Tóm lại, theo lối giải thích này, “Thằng Bờm” là một kẻ ngu ngốc, kém trí khôn chỉ nhìn thấy cái lợi trước mắt, mà không quan tâm đến những chương trình dài hạn.
Tôi chẳng có chút vốn liếng nào về phê bình văn học.Tôi cũng chẳng rành về thơ phú. Nhưng cũng như Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc khi ông nhận ra giá trị của bài thơ “Con Cóc” (x. Nguyễn Hưng Quốc, Thơ Con Cóc và những vấn đề khác, NXB Văn Mới, California, Hoa Kỳ, 2006) và cho rằng bài thơ này “nói hộ giùm tôi bao nhiêu điều u uẩn, cứ day dứt trong lòng”, tôi cảm nhận được một bài học sâu sắc từ “Thằng Bờm”.  Bước vào tuổi già, tôi không còn nhận ra bộ mặt ngu ngốc và kém trí khôn của “Thằng Bờm” nữa. “Thằng Bờm” đối với tôi ngày nay là một nhà “hiền triết” đầy sự khôn ngoan mà con người thời đại của tôi dường như đã đánh mất. “Thằng Bờm” là người biết cười và vui hưởng những điều đơn giản nhứt trong cuộc sống. Nó đi thẳng vào điều thiết yếu trong cuộc sống, chớ không phải mất công “đi loanh quanh cho đời mỏi mệt”.
Tôi không biết ông Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) có phải là đệ tử của “Thằng Bờm” không, nhưng cứ mỗi lần đọc mấy câu thơ của ông “một mai, một cuốc một cần câu. Thơ thẩn dầu ai vui thú nào. Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ. Người khôn người đến chốn lao xao”, tôi lại thấy đó như một thứ “thần chú” rất hiệu nghiệm. Chỉ cần vác cuốc ra vườn, vừa vận động cho gân cốt được giãn nở, vừa ngắm nhìn trời đất mênh mông thì  dù  đầu óc và người ngợm có nặng nề đến đâu, cũng cảm thấy nhẹ nhõm. Chỉ cần vác cần ra bờ hồ gần nhà, ném năm ba cái, ngồi nhìn cảnh mặt trời lặn, nghe chim hót là cũng đủ thấy đời “đẹp” như thế nào rồi. Đó là chưa nói tới chuyện kéo được một con cá đủ lớn cho một bữa ăn hay để dành biếu cho người thân.
Nói đến hình tượng “Thằng Bờm” và cuộc sống đơn giản, tôi cũng  “cảm” được cái triết lý sống mà ông bạn của tôi muốn gói ghém trong tên gọi “Thằng Bờm” mà ông đặt cho con trai. Là người có cái nhìn thật sâu sắc về cuộc đời, về con người, nhưng ông lại chọn một nếp sống đơn giản tối đa giữa chốn  phồn hoa, đô hội: không bon chen, không đua đòi, không tranh giành hơn thiệt và dĩ nhiên lúc nào cũng nở nụ cười thân thiện, thân ái và hài lòng về cuộc sống hiện tại. Tôi tin chắc rằng ông bạn tôi đã nắm bắt được đâu là điều thiết yếu trong cuộc sống: chỉ có cuộc sống đơn giản mới mang lại thanh thản, an vui và hạnh phúc đích thực cho con người. Văn thi sĩ Mỹ Henry David Thoreau (1817-1862) đã diễn tả đúng tâm trạng của người có cuộc sống đơn giản khi ông nói: “Sống đơn giản về mọi phương diện và sẵn sàng đối phó với trường hợp kẻ thù chiếm lấy thành phố là điều đáng mong ước...bởi vì ta có thể ra đi với hai bàn tay trắng và chẳng phải mang theo nỗi âu lo nào”.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét