Chu Thập
12.6.15

Theo Tiến sĩ Steve Taylor, giảng sư tại Đại học Leeds
Metropolitan, Anh Quốc, vị tha và hy sinh dường như là một sự đáp trả bình thường
của con người khi đứng trước những hoàn cảnh hay biến cố đau thương. Giáo sư
Taylor cũng kể lại một trường hợp khác xảy ra tại Tô Cách Lan dạo tháng 11 năm
2013: một chiếc máy bay trực thăng đã đâm vào một quán rượu khiến cho 10 người
thiệt mạng. Liền sau tai nạn, cư dân và người qua lại đã tuốn đến hiện trường.
Cùng với khách hàng của quán rượu, họ đã nối vòng tay để tạo thành một “giây
chuyền” và đưa những người bị thương và bất tỉnh ra khỏi nơi xảy ra tai nạn.
Theo giải thích của các chuyên gia tâm lý, nhìn theo quan điểm tiến hóa,
con người thường hành động vị tha vì lợi ích
riêng của bản thân. Vốn mang trong mình hàng ngàn “gen” di truyền mà mục đích
duy nhất là sống còn và truyền giống, con người không thực sự hy sinh cho người
khác hay ngay cả giúp đỡ người khác. Xét dưới khía cạnh di truyền học, một số
chuyên gia tâm lý cũng cho rằng nếu có hy sinh hay giúp đỡ người
khác, thì chúng ta cũng chỉ làm điều đó cho người thân hay họ hàng mà thôi, bởi
vì những người này mang cùng một thứ
“gen” giống như chúng ta, cho nên giúp đỡ họ cũng co nghĩa là giúp cho “gen” của chúng ta được tồn tại.
Nhưng phải giải thích như thế nào về việc chúng ta giúp đỡ những người chẳng
có giây mơ rễ má nào với chúng ta hoặc ngay cả súc vật? Các nhà tâm lý học cho rằng chẳng hề có điều được
gọi là vị tha “thuần túy”. Khi chúng ta giúp đỡ người lạ hay súc vật là vì chúng
ta nhắm tới một lợi ích nào đó cho chúng ta, ngay cả khi chúng ta không hề ý thức
về điều đó. Bất cứ một nghĩa cử nào cũng mang lại cho chúng ta một cảm xúc tích
cực. Chúng ta được người khác tôn trọng hơn hoặc ngay cả niềm hy vọng được lên
“Thiên Đàng” nơi chúng ta cũng lớn lên. Cũng theo cái nhìn “duy lợi”, nghĩa là
làm việc tốt để được nhìn nhận hay thưởng công, chúng ta thực thi những nghĩa cử
cho người khác với hy vọng một ngày nào đó họ sẽ đền ơn báo đáp cho chúng ta,
nhứt là khi chúng ta phải lâm vào hoàn cảnh khó khăn. Cũng có người thực thi
nghĩa cử để chứng tỏ cho người khác thấy hoặc mình là người giàu có hoặc mình
không phải là người vô dụng. Cũng không thiếu những người làm những cử chỉ “đẹp”
để trở nên hấp dẫn hơn đối với người khác phái.
Nhìn lại cuộc sống, tôi nhận thấy dường như rất nhiều nghĩa cử tôi làm cho
người khác đều xuất phát từ những động lực “duy lợi” được các chuyên gia tâm lý
ghi nhận trên đây. Nhưng tôi phải nhìn nhận rằng cũng có rất nhiều hành động tốt
được tôi thực thi cho người khác hầu như một cách tự động, nghĩa là chẳng có
tính toán hơn thiệt. Tôi cũng có thể hành động như Lục Vân Tiên của ông Đồ Chiểu:
“giữa đường thấy sự bất bình chẳng tha”. Đó thực sự là những hành động mang lại cho tôi một niềm vui sâu xa. Những
lúc như thế, tôi cảm thấy cái phần “người” trong tôi lớn thêm. Tôi tin rằng
cũng như tôi, rất nhiều người thực thi những nghĩa cử vì một động lực duy nhứt
là muốn giúp cho người khác bớt đau khổ hơn mà thôi. Con người được thúc đẩy để
xoa dịu nỗi khổ đau của người khác vì họ cảm thấy nỗi khổ đau của người khác
như một phần của chính họ. Nói theo triết gia Đức Arthur Schopenhauer (1788-1860), “nội tâm sâu thẳm của tôi hiện hữu trong mọi sinh vật...Đây chính là nền
tảng của sự cảm thông từ đó phát xuất lòng vị tha được biểu hiện trong mỗi
nghĩa cử”.
Nói cách khác, theo Giáo sư Taylor, vị tha là một trong những khía cạnh cao
thượng nhứt trong bản tính con người.
Nếu cái “nội tâm sâu thẳm của tôi” hiện hữu
trong mọi sinh vật”, nhứt là trong mỗi một
sinh linh, thì dĩ nhiên tôi không thể không đau khổ trước bất cứ nỗi khổ đau
nào của người khác đã đành, mà có lẽ tôi cũng không được phép vui trước nỗi bất
hạnh của ngay cả một kẻ gian ác.
Trong một bài viết mới đây, ông Bùi Bảo Trúc, tác giả của những bài tạp ghi
“Thư gởi bạn ta” có nhắc đến một trong niềm vui của ông Kim Thánh Thán, một nhà
phê bình văn học Trung Hoa sống hồi Thế kỷ 17: một
buổi sáng nọ, nghe gia nhân xôn xao bàn tán, ông hỏi chuyện mới biết thì ra
trong đêm qua, một kẻ quỉ quyệt, độc ác nhứt, bị nhiều người trong thành ghét nhứt vừa lăn cổ ra chết.
À thì ra thế. Mọi người vui vẻ là vì thế. Nghe xong, ông cũng thốt lên: “Chẳng
khoái ư?”
Tác giả của “Thư Gởi Bạn Ta” cũng ghi lại chuyện đắm tàu mới xảy ra trên
sông Dương Tử, bên Tàu cách đây hơn một tuần. Có trên 434 người chết và hiện
còn 8 người bị xem là mất tích. Tác giả viết rằng “kỳ lạ là tôi chẳng thấy xúc động gì về tai nạn
chìm tàu này cả”. Bởi lẽ theo ông, “biết đâu trong số những người chết ấy lại
chẳng có vài ba người đi chơi lần cuối trước khi lên đường ra Trường Sa, Hoàng
Sa, lên tàu hải giám để xịt nước, húc vào những tàu đánh cá của các ngư dân Việt
Nam từ Quảng Nam ra bắt cá. Cũng có thể trong những hành khách ấy lại có cả những
người từng đánh sang Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn...hồi năm 1979, thẳng tay bắn
giết, cướp phá, hãm hiếp...và nay lên tàu đi du lịch trên sông Dương Tử”.
Nghe tin những kẻ gian ác lâm nạn và ngay cả chết tất tưởi, nhiều người,
trong đó có tôi, dễ có phản ứng tự nhiên là thốt lên “cho đáng đời, đáng kiếp!”
hoặc triết lý hơn thì bảo “trời trả báo!” Nói cách khác, đã không mảy may xúc động
trước nỗi bất hạnh của họ, có khi tôi lại còn thấy vui là khác.
Nhưng nghĩ đến cái “nội tâm sâu thẳm” của mình
cũng hiện hữu nơi người khác, bất luận người hiền đức hay kẻ gian ác, tôi lại thấy
cái phản ứng của mình quả là “độc ác”. Hóa ra mình cũng chẳng hơn gì những kẻ
làm điều gian ác!
Hôm Chúa nhựt 7 tháng 6 vừa qua, nhiều người Việt ở Úc đã đổ
xô đến Blue Mountains, tiểu bang New South Wales, để lắng nghe Đức Đạt Lai Lạt
Ma, nhà lãnh đạo tinh thần của Tây Tạng, thuyết pháp hoặc chỉ để chiêm ngắm nụ
cười nhân hậu, từ bi, cảm thông của ngài. Mặc dù không tham dự các buổi thuyết
pháp của nhà lãnh đạo tôn giáo này, nhưng từ lâu, khi theo dõi các sinh hoạt và nghiền ngẫm những điều ngài giảng dạy
từ mấy chục năm qua, tôi nhận thấy cốt lõi giáo lý được
ngài quảng bá đều được tóm gọn trong hai chữ “cảm thông”. Và dĩ nhiên, đã cảm
thông thì đương nhiên lúc nào cũng tha thứ. Tôi chưa từng nghe nhà lãnh đạo
tinh thần này có bất cứ cử chỉ hoặc lời nói
thóa mạ hoặc căm thù nào đối với những kẻ thù của mình, đặc biệt là những người
cộng sản Trung Hoa, kể từ thời ông Mao Trạch Đông cho tới nay. Với Đức Đạt Lai
Lạt Ma, bất cứ một con người nào, ngay cả những kẻ gian ác, cũng đều có nỗi khổ
riêng của họ. Và dĩ nhiên, khi người ta đau khổ thì mình phải tỏ ra cảm thông.
Trong cuốn sách “An open heart” (một trái tim
rộng mở) ghi lại những bài nói chuyện và thuyết phát của ngài, Đức Đạt Lai Lạt
Ma nói rằng “sự cảm thông của chúng ta đối
với người khác càng lớn mạnh khi chúng ta biết nhận ra nỗi đau khổ của họ”.
Theo giáo lý Phật Giáo mà ngài quảng bá, đã là con người thì có ai mà thoát khỏi
đau khổ. Có khi càng giàu có và càng quyền thế con người lại càng nhiều đau khổ
hơn. Nhà lãnh đạo tinh thần của Tây Tạng giải thích: “Khi chúng ta thấy có người đang hưởng sự thành công và giàu sang phú
quí, thay vì cảm thông với họ vì biết rằng tất cả những thứ đó rồi cũng sẽ qua
đi khiến cho họ phải cảm thấy thất vọng vì sự mất mát đó, phản ứng của chúng ta
thường lại là ngưỡng mộ và đôi khi còn ganh tỵ nữa. Nếu chúng ta hiểu được sự
đau khổ và bản chất của nó, chúng ta sẽ nhận ra rằng danh vọng và của cải chỉ
là những thứ tạm bợ và khoái lạc mà những thứ đó mang lại đều sẽ qua đi khiến
cho con người phải đau khổ” (An Open Heart, Practicing Compassion in Everyday Life, by The Dalai Lama, edited by Nicholas Vreeland).
Bên kia mọi “tôn giáo”, “Đạo” mà Đức Đạt Lai Lạt Ma rao giảng chỉ đơn giản
có thế: nhận ra nỗi khổ đau của từng người và cảm thông với họ. “Đi Đạo” hay sống
“đạo hạnh” có lẽ cũng chỉ đơn giản có thế.
Tôi không có được vinh dự của tài tử gạo cội Richard Gere để làm đệ tử và
tháp tùng Đức Đạt Lai Lạt Ma. Nhưng với cuộc sống “chân tu” và nụ cười nhân ái
và cảm thông của ngài, nhà lãnh đạo tôn giáo này quả là thày tôi.
Trong một bài thơ trào lộng, thi sĩ Trần Tế Xương(1870-1907) có mỉa mai cái
“thói đời” của một số nhà tu thời ông qua câu: “công đức tu hành sư có lọng”. Nhiều người đã nhắc lại câu thơ này để
ám chỉ đến hiện tượng một thiền sư Việt Nam nổi tiếng ở nước ngoài, trong một lần
về thăm quê hương, đã khoác vào người áo mão lộng lẫy, lại để cho một số để tử
mang lọng đến công kênh. Từ lâu, tôi đã cố gắng vượt qua những khác biệt về
chính kiến để chỉ tiếp nhận những lời giảng dạy thâm hậu của vị thiền sư này.
Tôi chưa một lần tôn ông lên hàng thần tượng. Nhưng hình ảnh của một nhà sư “có
lọng” đã làm sứt mẻ không ít sự kính trọng tôi đã dành cho ông.
Tôi vốn dị ứng với bất cứ áo mão, gậy gộc nào trên người của các nhà lãnh đạo
tôn giáo. Với tôi, đó là những di tích thừa thãi, rơi rớt từ một thời huy hoàng
giả tạo của một tôn giáo, không phản ảnh được tinh thần đích thực của bất cứ
tôn giáo nào. Đây chính là lý do tại sao lúc nào tôi cũng bái phục Đức Đại Lai
Lạt Ma. Ngài luôn luôn xuất hiện trước công chúng như một tỳ kheo đơn sơ, hiền
lành, khiêm tốn, không tự mang hay để cho người khác khoác lên người bất cứ hào
quang giả tạo nào. Ít nhứt tôi nhận ra đó như biểu hiện đích thực của lòng vị
tha vô vị lợi: quên mình để chỉ nghĩ đến người khác!
Với tôi, Đức Đạt Lai Lạt Ma quả là mẫu mực của một người “đạo hạnh”. Nơi
ngài, “Đạo” và “Hạnh” luôn đi đôi với nhau. “Hạnh” nơi ngài chính là buông bỏ,
gột rửa tất cả những thứ râu ria phù phiếm không cần thiết của “thói đời”.
Tôi là người “có đạo” và “đi đạo” ngay từ lúc mới lọt lòng mẹ. Nhưng không
phải vì thế mà tôi đương nhiên là người “đạo hạnh”. “Đạo hạnh” thực sự, như tôi
được nhìn thấy qua con người của nhà lãnh đạo tinh thần của Tây Tạng, chính là
không ngừng từ bỏ chính mình để biết cảm thông và sống vị tha một cách vô vị lợi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét