Chu Thập
28/10/10
28/10/10
Ngày nay, ngoại
trừ những tai nạn, đa số những cái chết đều xảy ra trong bệnh viện, nhà dưỡng
lão. Nếu có ra đi trong nhà, thì người chết cũng được người thân vội vàng gọi
nhà quàn đến mang đi lo liệu. Tôi không biết có phải vì ít “tiếp cận” với cái
chết mà trẻ con Tây phương cứ mong cho đến ngày Halloween để hóa trang và mang
những chiếc mặt nạ của Tử Thần không.
Tôi sinh ra và lớn
lên trong một xóm đạo. Ngoài văn hóa Á đông, tôi còn thấm nhiễm cái tinh thần “đạo”
của thời thập niên 1950, cho nên ngay từ nhỏ đã thấy “gần gũi” với sự chết. Mới
4, 5 giờ sáng, dầu chưa tới tuổi khôn, ngày nào tôi cũng bị bà mẹ “sùng đạo” dựng
đầu dậy bắt phải đến nhà thờ “xem lễ”. Thời bấy giờ, con nít như tôi chỉ đến
nhà thờ để “xem” lễ theo đúng nghĩa. Mà bởi ngoại trừ ngày Chúa nhựt, 6 ngày
trong tuần, ông cha sở đều làm “lễ mồ” cho nên tôi phải “xem lễ” mệt nghỉ. Theo
danh từ nhà đạo, “lễ mồ” tức là lễ cầu hồn cho người đã qua đời. Toàn bộ khung
cảnh bên trong nhà thờ đều mang mầu tang chế: ở giữa nhà thờ, người ta dựng lên
một cái mồ mầu đen, xung quanh có đốt nến và trang hoàng bằng những hình ảnh ma
quái như xương, sọ người và những giọt nước mắt. Trên các cây cột trong nhà thờ
đều có treo lủng lẳng cũng những hình tượng chết chóc ấy. Dĩ nhiên, trên bàn thờ
thì khỏi nói, ngoài cái mầu đen tang tóc của bộ áo lễ mà linh mục mặc trên người,
con mắt trẻ con của tôi nhìn lên chỉ thấy toàn những hình ảnh ma quái. Nhưng
rùng rợn hơn phải nói đến âm thanh não nuột từ gác chuông giáo đường, cứ không
đầy một phút lại vang lên một lần. Bộ lễ “Requiem”, dù bằng tiếng Latinh mà chẳng
ai hiểu gì, trẻ con nghe vẫn thấy “buồn” chứ đừng nói người lớn.
Lớn lên trong
cái xóm đạo đầy “ám khí” ấy, cho nên lũ trẻ chúng tôi đâu thấy cần phải mang mặt
nạ của Thần chết nữa. Có mang mặt nạ chăng thì chúng tôi chỉ mang mặt nạ của “Zorro”.
Thời bấy giờ chưa có “Người Dơi”, “Người Nhện” cho nên “Zorro” là thần tượng của
lũ trẻ chúng tôi. Đứa nào cũng có thể tự đẽo được một cái súng gỗ, đeo vào cái
mặt nạ của “Zorro” và tha hồ ca bài “ò e con ma đánh đu, Tarzan nhảy dù, Zorro
bắn súng…”
Trở lại với cái
xóm đạo thân thương của tôi. Người lớn trong xóm đạo của tôi thường đề cao sự
thông thái và đạo đức của ông cha sở. Thông thái thì tôi chưa kiểm nghiệm được,
bởi vì trong nhà thờ có bao giờ tôi có đủ chú tâm để nghe hết một bài giảng
tràng giang đại hải của ông đâu. Đó là chưa kể những lúc ông “xổ nho” hay đọc
vài câu Latinh như đọc thần chú. Nhưng “đạo đức”, theo nhận thức của người giáo
dân cách đây hơn 50 năm thì quả thực, ông cha sở của tôi là một người đạo đức.
Tôi vẫn nhớ mãi hình ảnh của một ông linh mục mỗi buổi chiều xách gậy đi một
vòng xứ đạo và xông vào bất cứ nhà nào có sòng bài tứ sắc để “phang” tứ tung.
Và dĩ nhiên, làm sao tôi quên được không biết bao nhiêu hình phạt mà tôi phải
gánh chịu vì cái tật lười biếng không chịu học giáo lý. Khó tẩy xóa khỏi ký ức
nhứt là những lần bị đánh “rờ ve” (revers) ngay giữa nhà thờ, trước mặt “cả và
thiên hạ” mỗi khi bị bà mẹ cưỡng bách đi
xưng tội. Hai cái má của tôi in đỏ bàn tay năm ngón của ông cha sở. Vậy mà tôi
không bao giờ thấy mình bị bất cứ “thiệt hại tinh thần” nào trầm trọng đến độ bị
trầm cảm và phải đâm đơn kiện ra tòa để đòi bồi thường như thường thấy xảy ra tại
các nước Tây phương ngày nay. Với tôi, không thể dựa vào những chuẩn mực của thời
đại này để phán xét những hành động xảy ra cách đây hơn nửa thế kỷ.
Dù bị “hành hạ”
như thế, cũng như phần đông giáo dân vào thời đó, tôi vẫn nghĩ rằng ông cha sở
của tôi là một người đạo đức. Đúng ra, phải nói ông là một nhà lãnh đạo tinh thần
“nhiệm nhặt”. Ông sống khổ chế đã đành, mà ông cũng buộc giáo dân phải đi theo
con đường của ông. Hình ảnh của một số phụ nữ trong giáo xứ của tôi bị ông cha sở
đuổi ra khỏi nhà thờ vì trang điểm theo lối “Tây” vẫn còn sống mãi trong ký ức
non dại của tôi. Tôi nhớ có một bà không được cho rước lễ chỉ vì trên môi có tô
một chút son. Kể ra cặp mắt của ông cha sở tôi tinh tường thật. Cũng có một bà
khác bị đuổi ra khỏi nhà thờ chỉ vì có cái đầu tóc “phi dê” (frisé) tức “uốn dợn”.
Ngày nay, một hành động như thế của một linh mục nếu không bị xem là quái gở
thì cũng phải bị kiện ra tòa vì kỳ thị và xúc phạm đến phẩm giá con người.
Nhưng vào cái thời mà “cha” là “chúa” thì mọi hành động của cha đều là mô phạm.
Chẳng thấy ai lên tiếng bênh vực những người đàn bà “tiến bộ” ấy. Trái lại, mọi
người đều tán thành cách xử sự của vị linh mục và ngầm đề cao cái vẻ đẹp tự
nhiên, không son phấn, không tô vẽ của người phụ nữ. Vào thời ấy, có đặt con
trai ngồi ở đâu, thì cha mẹ nào cũng lựa những thiếu nữ đơn sơ, trong trắng,
không son phấn mầu mè. Trong một ý nghĩa nào đó, người “có đạo” trong cái xóm
giáo ngày xưa của tôi cho rằng “đạo đức” là phải sống đơn sơ, không che đậy, không
tô son trét phấn, không “giả hình” hay nói một cách gợi hình hơn, không đeo mặt
nạ. Suy cho rộng ra, người ta muốn nói rằng người đạo đức thực sự là người sống
thật với lòng mình.
Từ cái mặt nạ tử
thần của lũ trẻ trong ngày Halloween ngày nay, tôi “vòng vo tam quốc” trở về
cái xóm đạo ngày xưa của tôi là để đi đến một kết luận có mầu sắc hơi triết học
một chút: chân, thiện, mỹ luôn đi với nhau. Cái đẹp cũng đương nhiên là cái thật.
Đẹp mà “giả tạo” thì không thực sự là đẹp nữa.
Ngày nay, tiến bộ
khoa học đã giúp con người thắng vượt được không biết bao nhiêu bệnh tật và giới
hạn. Hầu như cơ phận nào hư hỏng cũng đều có thể thay thế được. Ngay cả một
khuôn mặt xấu xí và biến dị vì tai nạn cũng có thể được giải phẫu và thay thế bằng
khuôn mặt của một người hiến tặng. Giải phẫu thẩm mỹ đã mang lại lòng tự tin và
thành công cho nhiều người. Chỉ cần một
vài cú cắt xén, khoa thẩm mỹ đã có thể tân trang ngoại hình của con người từ A
đến Z. Có khi con người được tân trang biến dạng đến độ chẳng ai còn nhận ra được
con người “cũ” nữa.
Dĩ nhiên, ai
cũng biết đó là một cái đẹp giả tạo. Và càng chạy theo cái đẹp giả tạo, con người
càng có khuynh hướng “đeo mặt nạ” và không muốn sống thực với chính mình.
Trong “Liêu Trai
Chí Dị”, tác giả Bồ Tùng Linh của Trung quốc qua đời vào đầu thế kỷ 18 có kể một
câu chuyện với nội dung dường như mang hàm ý ấy. Mã Tuấn, nhân vật chính của
câu chuyện, là một thanh niên khôi ngô tuấn tú. Theo nghiệp cha, anh dẹp bỏ việc
đèn sách và học nghề buôn. Sau một thời gian bôn ba lưu lạc khắp nơi, cuối cùng
anh đến một nước có tên là “Đại La Sát”. Trong cái đất nước này, cái gì xem ra
cũng ngược đời. Một hôm, Mã Tuấn thấy một người đàn ông với gương mặt lạ thường:
tai mọc ngược lên, mũi có ba lỗ, rèm mi rũ xuống che kín cả mặt như bức mành
mành. Kế đến là mấy người cỡi ngựa nối gót theo sau. Người làng giải thích: người
đàn ông kỳ dị đó là quan tướng quốc, còn mấy người đi theo sau là các quan đại
phu. Mã Tuấn thấy rằng ông nào cũng có hình dạng quái dị. Người ta còn nói với
anh rằng hễ quan chức càng nhỏ thì mặt mũi càng đỡ xấu.
Nhưng dưới con mắt
người dân làng, Mã Tuấn lại là một con người kỳ quái và xấu xí nhứt. Ai trông
thấy anh cũng phải bỏ chạy như gặp một quái vật. Người ta chỉ đứng trong cửa
nhìn ra mà thôi.
Một hôm, có quan
chấp kích là người đã từng đi nhiều nơi, trông thấy người lạ cũng nhiều, đến
thăm làng. Nghe tin có người kỳ quái xuất hiện, ông liền cho mời Mã Tuấn đến để
xem mặt. Anh nhận thấy quan chấp kích là
một cụ già cũng đã 90 tuổi, mắt lồi hẳn ra ngoài, râu ria tua tủa như lông
nhím.
Ở nhà quan chấp
kích được ít lâu, một hôm uống rượu với chủ nhân, say mèm, Mã Tuấn liền rút kiếm
đứng lên múa, rồi lấy than bôi vào mặt giả làm Trương Phi. Quan chấp kích thích
chí liền đề nghị với người thanh niên hãy cứ để nguyên bộ mặt Trương Phi như vậy;
ngày mai ông sẽ tiến cử với quan tể tướng. Quan nài mãi, Mã Tuấn mới bằng lòng.
Ông liền cho mở tiệc mời các quan đến uống rượu và dặn người thanh niên vẽ mặt
hóa trang thành Trương Phi. Ai cũng nhìn nhận là con người xấu xí của Mã Tuấn
đã biến mất để hiện nguyên hình là một người đẹp đẽ, phương phi. Dĩ nhiên, dưới
cái nhìn của người dân xứ “Đại La Sát”.
Hôm sau Mã Tuấn
được tiến cử vào cung điện. Nhà vua sai mở tiệc và truyền cho anh múa hát. Vua hài
lòng lắm, liền phong cho anh làm Hạ đại phu, luôn cho ngồi hầu yến và ban cho
nhiều ân sủng đặc biệt.
Mã Tuấn bị đặt
trong tư thế phải luôn xuất hiện với khuôn mặt của Trương Phi. Nhưng dần dà các
quan trong triều đều biết anh khoác bộ mặt giả. Đi đến đâu, anh cũng thấy người
ta thì thào bàn tán, không còn vồn vã thân mật như trước nữa. Cảm thấy mình bị
cô lập, anh liền dâng sớ xin về hưu. Nhưng nhà vua chỉ cho phép anh được đi nghỉ
ba tháng. Mã Tuấn liền lấy ngựa chở vàng về sơn thôn. Người trong thôn quỳ xuống
mà đón. Anh lấy vàng lụa phân phát cho mấy người thân quen từ trước. Tiếng reo
mừng vang lên như sấm. Anh cũng cảm thấy vui vì không còn phải mang chiếc mặt nạ
của Trương Phi nữa.
Phải can đảm như
Mã Tuấn trong câu chuyện “Liêu Trai” trên đây mới dám cởi bỏ cái mặt nạ để trở
về với chính mình. Cởi bỏ con người giả tạo là chấp nhận mất đi địa vị và bổng
lộc.
Thói đời, như
người Việt nam hay nói, chúng ta thường có khuynh hướng “tốt khoe, xấu
che”. Chính vì không muốn cho người khác
biết cái xấu, cái sở đoản, cái khuyết điểm, cái bất toàn, cái giới hạn của mình
mà con người đành phải đeo vào cái mặt nạ. Trung quốc có cố gắng tổ chức một Thế
vận hội Bắc Kinh cho thật “hoành tráng” là chỉ để khoe cái mặt giàu có, hùng mạnh
của mình và khỏa lấp những thành tích tồi tệ về nhân quyền và bao nhiêu những tệ
nạn xã hội khác do chế độ đẻ ra. Chế độ cộng sản Việt nam có tốn kém đến cả 10
phần trăm tổng sản lượng quốc gia cho việc tổ chức kỷ niệm 1000 năm Thăng Long
là cũng chỉ để che đậy cái bộ mặt tồi tệ về mọi mặt của chế độ, nhứt là về nhân
quyền và công bình xã hội.
Thuở nhỏ, tôi
thường theo cha mẹ đi xem cải lương, mỗi khi có một đoàn nổi tiếng từ Sài Gòn về
các tỉnh biểu diễn. Dưới ánh đèn mầu, tôi thấy ai cũng đẹp. Nhưng sáng hôm sau,
lảng vảng đến trước rạp hát để hy vọng được chiêm ngắm các tài tử giai nhân,
tôi thất vọng hoàn toàn khi cái lớp son phấn được rửa khỏi gương mặt của họ.
Có khi tôi cũng
thất vọng như thế về chính mình khi cái mặt nạ của mình vô tình bị cất khỏi
gương mặt. Thật vậy, tôi không thể cảm thấy có được sự bình an trong tâm hồn
khi tôi cứ phải cố gắng che đậy những giới hạn của mình bằng đủ mọi mặt nạ.
Không cần đâu
xa, mỗi khi tôi có việc phải “đóng bộ” vào là tôi thấy như mình bị ngộp thở.
Cái áo vest như “nhốt” thân hình tôi vào một cái khung. Chiếc cà vạt thì chẳng
khác gì cái thòng lọng. Đôi giày da thì lại “bó rọ” hai bàn chân. Mỗi lần như vậy,
tôi chỉ mong cho mau về nhà, “tuột” bộ đồ “vía” ra và trở về với cái quần “xà lỏn”
và áo “thung”. Dù có thử bao nhiêu bận, tôi vẫn thấy mình chỉ thoải mái khi trở
về làm một người Việt nam quê mùa, chất phác. Vì thực sự tôi là như vậy.
Bằng lòng với
chính mình, sống thực với chính mình, tôi nghĩ đó là cách thế duy nhứt để tôi
có được sự bình an thực sự trong tâm hồn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét