Thứ Hai, 13 tháng 10, 2014

Tốt Khoe, Xấu Che



                                                                             Chu Thập
28/10/10

Ngày nay, ngoại trừ những tai nạn, đa số những cái chết đều xảy ra trong bệnh viện, nhà dưỡng lão. Nếu có ra đi trong nhà, thì người chết cũng được người thân vội vàng gọi nhà quàn đến mang đi lo liệu. Tôi không biết có phải vì ít “tiếp cận” với cái chết mà trẻ con Tây phương cứ mong cho đến ngày Halloween để hóa trang và mang những chiếc mặt nạ của Tử Thần không.
Tôi sinh ra và lớn lên trong một xóm đạo. Ngoài văn hóa Á đông, tôi còn thấm nhiễm cái tinh thần “đạo” của thời thập niên 1950, cho nên ngay từ nhỏ đã thấy “gần gũi” với sự chết. Mới 4, 5 giờ sáng, dầu chưa tới tuổi khôn, ngày nào tôi cũng bị bà mẹ “sùng đạo” dựng đầu dậy bắt phải đến nhà thờ “xem lễ”. Thời bấy giờ, con nít như tôi chỉ đến nhà thờ để “xem” lễ theo đúng nghĩa. Mà bởi ngoại trừ ngày Chúa nhựt, 6 ngày trong tuần, ông cha sở đều làm “lễ mồ” cho nên tôi phải “xem lễ” mệt nghỉ. Theo danh từ nhà đạo, “lễ mồ” tức là lễ cầu hồn cho người đã qua đời. Toàn bộ khung cảnh bên trong nhà thờ đều mang mầu tang chế: ở giữa nhà thờ, người ta dựng lên một cái mồ mầu đen, xung quanh có đốt nến và trang hoàng bằng những hình ảnh ma quái như xương, sọ người và những giọt nước mắt. Trên các cây cột trong nhà thờ đều có treo lủng lẳng cũng những hình tượng chết chóc ấy. Dĩ nhiên, trên bàn thờ thì khỏi nói, ngoài cái mầu đen tang tóc của bộ áo lễ mà linh mục mặc trên người, con mắt trẻ con của tôi nhìn lên chỉ thấy toàn những hình ảnh ma quái. Nhưng rùng rợn hơn phải nói đến âm thanh não nuột từ gác chuông giáo đường, cứ không đầy một phút lại vang lên một lần. Bộ lễ “Requiem”, dù bằng tiếng Latinh mà chẳng ai hiểu gì, trẻ con nghe vẫn thấy “buồn” chứ đừng nói người lớn. 
Lớn lên trong cái xóm đạo đầy “ám khí” ấy, cho nên lũ trẻ chúng tôi đâu thấy cần phải mang mặt nạ của Thần chết nữa. Có mang mặt nạ chăng thì chúng tôi chỉ mang mặt nạ của “Zorro”. Thời bấy giờ chưa có “Người Dơi”, “Người Nhện” cho nên “Zorro” là thần tượng của lũ trẻ chúng tôi. Đứa nào cũng có thể tự đẽo được một cái súng gỗ, đeo vào cái mặt nạ của “Zorro” và tha hồ ca bài “ò e con ma đánh đu, Tarzan nhảy dù, Zorro bắn súng…”
Trở lại với cái xóm đạo thân thương của tôi. Người lớn trong xóm đạo của tôi thường đề cao sự thông thái và đạo đức của ông cha sở. Thông thái thì tôi chưa kiểm nghiệm được, bởi vì trong nhà thờ có bao giờ tôi có đủ chú tâm để nghe hết một bài giảng tràng giang đại hải của ông đâu. Đó là chưa kể những lúc ông “xổ nho” hay đọc vài câu Latinh như đọc thần chú. Nhưng “đạo đức”, theo nhận thức của người giáo dân cách đây hơn 50 năm thì quả thực, ông cha sở của tôi là một người đạo đức. Tôi vẫn nhớ mãi hình ảnh của một ông linh mục mỗi buổi chiều xách gậy đi một vòng xứ đạo và xông vào bất cứ nhà nào có sòng bài tứ sắc để “phang” tứ tung. Và dĩ nhiên, làm sao tôi quên được không biết bao nhiêu hình phạt mà tôi phải gánh chịu vì cái tật lười biếng không chịu học giáo lý. Khó tẩy xóa khỏi ký ức nhứt là những lần bị đánh “rờ ve” (revers) ngay giữa nhà thờ, trước mặt “cả và thiên hạ” mỗi khi bị bà mẹ cưỡng bách  đi xưng tội. Hai cái má của tôi in đỏ bàn tay năm ngón của ông cha sở. Vậy mà tôi không bao giờ thấy mình bị bất cứ “thiệt hại tinh thần” nào trầm trọng đến độ bị trầm cảm và phải đâm đơn kiện ra tòa để đòi bồi thường như thường thấy xảy ra tại các nước Tây phương ngày nay. Với tôi, không thể dựa vào những chuẩn mực của thời đại này để phán xét những hành động xảy ra cách đây hơn nửa thế kỷ.
Dù bị “hành hạ” như thế, cũng như phần đông giáo dân vào thời đó, tôi vẫn nghĩ rằng ông cha sở của tôi là một người đạo đức. Đúng ra, phải nói ông là một nhà lãnh đạo tinh thần “nhiệm nhặt”. Ông sống khổ chế đã đành, mà ông cũng buộc giáo dân phải đi theo con đường của ông. Hình ảnh của một số phụ nữ trong giáo xứ của tôi bị ông cha sở đuổi ra khỏi nhà thờ vì trang điểm theo lối “Tây” vẫn còn sống mãi trong ký ức non dại của tôi. Tôi nhớ có một bà không được cho rước lễ chỉ vì trên môi có tô một chút son. Kể ra cặp mắt của ông cha sở tôi tinh tường thật. Cũng có một bà khác bị đuổi ra khỏi nhà thờ chỉ vì có cái đầu tóc “phi dê” (frisé) tức “uốn dợn”. Ngày nay, một hành động như thế của một linh mục nếu không bị xem là quái gở thì cũng phải bị kiện ra tòa vì kỳ thị và xúc phạm đến phẩm giá con người. Nhưng vào cái thời mà “cha” là “chúa” thì mọi hành động của cha đều là mô phạm. Chẳng thấy ai lên tiếng bênh vực những người đàn bà “tiến bộ” ấy. Trái lại, mọi người đều tán thành cách xử sự của vị linh mục và ngầm đề cao cái vẻ đẹp tự nhiên, không son phấn, không tô vẽ của người phụ nữ. Vào thời ấy, có đặt con trai ngồi ở đâu, thì cha mẹ nào cũng lựa những thiếu nữ đơn sơ, trong trắng, không son phấn mầu mè. Trong một ý nghĩa nào đó, người “có đạo” trong cái xóm giáo ngày xưa của tôi cho rằng “đạo đức” là phải sống đơn sơ, không che đậy, không tô son trét phấn, không “giả hình” hay nói một cách gợi hình hơn, không đeo mặt nạ. Suy cho rộng ra, người ta muốn nói rằng người đạo đức thực sự là người sống thật với lòng mình.
Từ cái mặt nạ tử thần của lũ trẻ trong ngày Halloween ngày nay, tôi “vòng vo tam quốc” trở về cái xóm đạo ngày xưa của tôi là để đi đến một kết luận có mầu sắc hơi triết học một chút: chân, thiện, mỹ luôn đi với nhau. Cái đẹp cũng đương nhiên là cái thật. Đẹp mà “giả tạo” thì không thực sự là đẹp nữa.
Ngày nay, tiến bộ khoa học đã giúp con người thắng vượt được không biết bao nhiêu bệnh tật và giới hạn. Hầu như cơ phận nào hư hỏng cũng đều có thể thay thế được. Ngay cả một khuôn mặt xấu xí và biến dị vì tai nạn cũng có thể được giải phẫu và thay thế bằng khuôn mặt của một người hiến tặng. Giải phẫu thẩm mỹ đã mang lại lòng tự tin và thành công cho nhiều người.  Chỉ cần một vài cú cắt xén, khoa thẩm mỹ đã có thể tân trang ngoại hình của con người từ A đến Z. Có khi con người được tân trang biến dạng đến độ chẳng ai còn nhận ra được con người “cũ” nữa.
Dĩ nhiên, ai cũng biết đó là một cái đẹp giả tạo. Và càng chạy theo cái đẹp giả tạo, con người càng có khuynh hướng “đeo mặt nạ” và không muốn sống thực với chính mình.
Trong “Liêu Trai Chí Dị”, tác giả Bồ Tùng Linh của Trung quốc qua đời vào đầu thế kỷ 18 có kể một câu chuyện với nội dung dường như mang hàm ý ấy. Mã Tuấn, nhân vật chính của câu chuyện, là một thanh niên khôi ngô tuấn tú. Theo nghiệp cha, anh dẹp bỏ việc đèn sách và học nghề buôn. Sau một thời gian bôn ba lưu lạc khắp nơi, cuối cùng anh đến một nước có tên là “Đại La Sát”. Trong cái đất nước này, cái gì xem ra cũng ngược đời. Một hôm, Mã Tuấn thấy một người đàn ông với gương mặt lạ thường: tai mọc ngược lên, mũi có ba lỗ, rèm mi rũ xuống che kín cả mặt như bức mành mành. Kế đến là mấy người cỡi ngựa nối gót theo sau. Người làng giải thích: người đàn ông kỳ dị đó là quan tướng quốc, còn mấy người đi theo sau là các quan đại phu. Mã Tuấn thấy rằng ông nào cũng có hình dạng quái dị. Người ta còn nói với anh rằng hễ quan chức càng nhỏ thì mặt mũi càng đỡ xấu.
Nhưng dưới con mắt người dân làng, Mã Tuấn lại là một con người kỳ quái và xấu xí nhứt. Ai trông thấy anh cũng phải bỏ chạy như gặp một quái vật. Người ta chỉ đứng trong cửa nhìn ra mà thôi.
Một hôm, có quan chấp kích là người đã từng đi nhiều nơi, trông thấy người lạ cũng nhiều, đến thăm làng. Nghe tin có người kỳ quái xuất hiện, ông liền cho mời Mã Tuấn đến để xem mặt.  Anh nhận thấy quan chấp kích là một cụ già cũng đã 90 tuổi, mắt lồi hẳn ra ngoài, râu ria tua tủa như lông nhím.
Ở nhà quan chấp kích được ít lâu, một hôm uống rượu với chủ nhân, say mèm, Mã Tuấn liền rút kiếm đứng lên múa, rồi lấy than bôi vào mặt giả làm Trương Phi. Quan chấp kích thích chí liền đề nghị với người thanh niên hãy cứ để nguyên bộ mặt Trương Phi như vậy; ngày mai ông sẽ tiến cử với quan tể tướng. Quan nài mãi, Mã Tuấn mới bằng lòng. Ông liền cho mở tiệc mời các quan đến uống rượu và dặn người thanh niên vẽ mặt hóa trang thành Trương Phi. Ai cũng nhìn nhận là con người xấu xí của Mã Tuấn đã biến mất để hiện nguyên hình là một người đẹp đẽ, phương phi. Dĩ nhiên, dưới cái nhìn của người dân xứ “Đại La Sát”.
Hôm sau Mã Tuấn được tiến cử vào cung điện. Nhà vua sai mở tiệc và truyền cho anh múa hát. Vua hài lòng lắm, liền phong cho anh làm Hạ đại phu, luôn cho ngồi hầu yến và ban cho nhiều ân sủng đặc biệt.
Mã Tuấn bị đặt trong tư thế phải luôn xuất hiện với khuôn mặt của Trương Phi. Nhưng dần dà các quan trong triều đều biết anh khoác bộ mặt giả. Đi đến đâu, anh cũng thấy người ta thì thào bàn tán, không còn vồn vã thân mật như trước nữa. Cảm thấy mình bị cô lập, anh liền dâng sớ xin về hưu. Nhưng nhà vua chỉ cho phép anh được đi nghỉ ba tháng. Mã Tuấn liền lấy ngựa chở vàng về sơn thôn. Người trong thôn quỳ xuống mà đón. Anh lấy vàng lụa phân phát cho mấy người thân quen từ trước. Tiếng reo mừng vang lên như sấm. Anh cũng cảm thấy vui vì không còn phải mang chiếc mặt nạ của Trương Phi nữa.
Phải can đảm như Mã Tuấn trong câu chuyện “Liêu Trai” trên đây mới dám cởi bỏ cái mặt nạ để trở về với chính mình. Cởi bỏ con người giả tạo là chấp nhận mất đi địa vị và bổng lộc.
Thói đời, như người Việt nam hay nói, chúng ta thường có khuynh hướng “tốt khoe, xấu che”.  Chính vì không muốn cho người khác biết cái xấu, cái sở đoản, cái khuyết điểm, cái bất toàn, cái giới hạn của mình mà con người đành phải đeo vào cái mặt nạ. Trung quốc có cố gắng tổ chức một Thế vận hội Bắc Kinh cho thật “hoành tráng” là chỉ để khoe cái mặt giàu có, hùng mạnh của mình và khỏa lấp những thành tích tồi tệ về nhân quyền và bao nhiêu những tệ nạn xã hội khác do chế độ đẻ ra. Chế độ cộng sản Việt nam có tốn kém đến cả 10 phần trăm tổng sản lượng quốc gia cho việc tổ chức kỷ niệm 1000 năm Thăng Long là cũng chỉ để che đậy cái bộ mặt tồi tệ về mọi mặt của chế độ, nhứt là về nhân quyền và công bình xã hội.
Thuở nhỏ, tôi thường theo cha mẹ đi xem cải lương, mỗi khi có một đoàn nổi tiếng từ Sài Gòn về các tỉnh biểu diễn. Dưới ánh đèn mầu, tôi thấy ai cũng đẹp. Nhưng sáng hôm sau, lảng vảng đến trước rạp hát để hy vọng được chiêm ngắm các tài tử giai nhân, tôi thất vọng hoàn toàn khi cái lớp son phấn được rửa khỏi gương mặt của họ.
Có khi tôi cũng thất vọng như thế về chính mình khi cái mặt nạ của mình vô tình bị cất khỏi gương mặt. Thật vậy, tôi không thể cảm thấy có được sự bình an trong tâm hồn khi tôi cứ phải cố gắng che đậy những giới hạn của mình bằng đủ mọi mặt nạ.
Không cần đâu xa, mỗi khi tôi có việc phải “đóng bộ” vào là tôi thấy như mình bị ngộp thở. Cái áo vest như “nhốt” thân hình tôi vào một cái khung. Chiếc cà vạt thì chẳng khác gì cái thòng lọng. Đôi giày da thì lại “bó rọ” hai bàn chân. Mỗi lần như vậy, tôi chỉ mong cho mau về nhà, “tuột” bộ đồ “vía” ra và trở về với cái quần “xà lỏn” và áo “thung”. Dù có thử bao nhiêu bận, tôi vẫn thấy mình chỉ thoải mái khi trở về làm một người Việt nam quê mùa, chất phác. Vì thực sự tôi là như vậy.
Bằng lòng với chính mình, sống thực với chính mình, tôi nghĩ đó là cách thế duy nhứt để tôi có được sự bình an thực sự trong tâm hồn.







Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét