Thứ Bảy, 18 tháng 10, 2014

Nhập gia tùy tục



                                                                                            Chu Thập
10/10/14

Một trong những giây phút mà tôi cho là đáng ghi nhớ nhứt trong cuộc đời tỵ nạn của mình là lúc tôi vừa đặt chân xuống phi trường Charles de Gaulle ở thủ đô Paris, Pháp Quốc. Đó là một buổi sáng đầu Thu của đầu thập niên 1980. Cùng với cả một đám người tỵ nạn Việt, Miên, Lào, ngồi co ro trong những chiếc ghế bành lớn của phi trường trong khi chờ đợi làm thủ tục để được đưa về các trại tạm cư ở ngoại ô Paris, tôi cảm thấy bơ vơ lạc lõng hơn bao giờ hết. Càng cảm thấy xa lạ hơn nữa khi tôi đưa mắt theo dõi dòng người đang lượn qua trước mặt. Trước hết là một phái đoàn “cổ trắng”, mặc đồ lớn sang trọng. Tôi đoán đây là một nhóm doanh gia hay chính trị gia đang chờ lên máy bay để đi hội họp ở đâu đó. Nhưng thu hút sự chú ý của tôi nhiều nhứt có lẽ là một số phụ nữ mặc toàn mầu đen, trùm kín từ đầu đến chân, chỉ để lộ hai con mắt. Về sau tôi mới biết tên gọi của y phục đó là “burqa”, được một số phụ nữ Hồi giáo tại một số quốc gia Hồi giáo mặc và họ vẫn tiếp tục mặc sau khi đã định cư tại một nước Tây Phương. Chiếc “burqa” này là hình ảnh đầu tiên cho phép tôi được tiếp xúc với thế giới Hồi giáo. Người Hồi giáo ở Việt Nam chưa đủ đông để khẳng định sự hiện diện của họ trong xã hội, cho nên lúc còn trong nước tôi chỉ có một ý niệm rất mù mờ về tôn giáo này. Ngay cả khi được “tạm trú” trong trại tỵ nạn Galang ở Nam Dương là quốc gia có số tín đồ Hồi giáo đông nhứt thế giới, vì ở trong một nơi hoàn toàn bị cách ly với thế giới bên ngoài, cho nên tôi cũng không có cơ hội tiếp xúc với thế giới Hồi giáo.
Hai bộ y phục tương phản nhau trên đây mà tôi lần đầu tiên nhìn thấy tại phi trường Charles de Gaulle đã gợi lên cho tôi một hình ảnh với đủ mọi mầu sắc về Pháp Quốc, nơi tôi đã muốn chọn làm quê hương thứ hai của mình. Trước hết đó là một nước Pháp mà tôi chỉ có thể gọi đích danh là “thực dân”. Chiếc “burqa” mầu đen lướt thướt giữa thủ đô ánh sáng Paris gợi lên một trang sử đen tối trong lịch sử của nước Pháp cũng như nhiều dân tộc khác, trong đó có Việt Nam, khi thực dân Pháp qui tụ được một đội ngũ lính đánh thuê hùng hậu để đi “cướp đất” của các nước khác. Chính vì tội ác ấy mà ngày nay nước Pháp đang phải chịu “quả báo” về những xáo trộn xã hội mà sự hiện diện gần như quá tải của người di dân từ các nước thuộc địa đổ xô về có thể tạo ra.
Nhưng hình ảnh của chiếc “burqa” lả lướt bên cạnh những bộ thời trang đắt tiền của người dân sành điệu Paris lại gợi lên cho tôi một ý nghĩ khác: người Pháp vốn có tinh thần khoan nhượng cao độ! Trong một xã hội đa chủng tộc, đa văn hóa, đa tôn giáo như nước Pháp, mỗi người đều có một chỗ đứng. Cho đến ngày 14 tháng 9 năm 2010, tức ngày Quốc Hội Pháp thông qua luật cấm mang “burqa” với mục đích cho phép nhân viên công lực dễ dàng nhận diện được người cần bị xét hỏi, chẳng có ai thắc mắc hay chống đối về chuyện có những người ra đường di chuyển như những “xác chết biết đi”. Người Pháp nổi tiếng thích tự do, tự do đến độ trước bất cứ một tấm bảng “cấm” nào, người ta cũng muốn thêm vào một tiếng “cấm” khác thành ra  “cấm cấm” (interdit d’interdire).
Trong cố gắng gọi là “hội nhập văn hóa”, ngoài bài học khoan nhượng của người Pháp, tôi cũng muốn tẩy bàn chân dính phèn của mình bằng cách học lại những bài học căn bản về “ăn nói”. Tôi tập uống rượu cho đúng cách. Tôi tập sử dụng muỗng nĩa, dao cũng như ngồi trên bàn ăn cho đúng cách. Tôi cũng tập ăn cho đúng cách, nghĩa là không nói khi miệng tôi còn đầy thức ăn, không ăn một cách ồn ào. Nói thì dĩ nhiên, cứ mở miệng là tôi phải tập cho bằng được những công thức “cám ơn, xin vui lòng, xin lỗi, rất lấy làm buồn...” Cả chuyện ăn mặc cho đúng cách như dân Tây, tôi cũng học nữa. Tôi nhớ có lần tôi “diện” một bộ “com-lê” mới mua với cà vạt hẳn hoi trông “cũng như người ta”. Nhưng ngắm tôi từ trên xuống dưới, một anh bạn thân người Pháp nhắc khéo: “Người Pháp may áo vét có hai nút, nhưng họ chỉ cài nút trên thôi”. Thì ra, tôi muốn ăn chắc, thấy có nút là cài, không biết rằng một nút để cài, còn một nút để...làm dáng!
Trên đây chỉ là một vài “chuyện nhỏ” mà tôi nhận thấy mình không thể không làm như người ta một khi đã nhận đất nước của họ làm quê hương mới của mình. Đây là bài học đầu tiên mà có lẽ ông bà tổ tiên chúng ta đã dạy khi nói: “nhập gia tùy tục”.
Về chuyện “nhập gia tùy tục”  tôi nhận thấy chẳng có nơi nào tôi học nhanh và thực hành nhuần nhuyễn cho bằng tại Thái Lan, nơi tôi đến viếng thăm cách đây không lâu. Hai điều căn bản tại xứ Phật này mà tôi đã thực hiện với tất cả trân trọng và thành tín là vái chào và cởi bỏ giày dép mỗi khi vào nhà người khác. Tôi thích vái chào, bởi vì mỗi khi làm cử chỉ này, nhứt là kèm theo nụ cười, tôi luôn ý thức rằng mình được mời gọi trút bỏ mọi dửng dưng, nghi kỵ và thù hận ra khỏi tâm hồn, đồng thời cố gắng nhìn thấy “phật tính” nơi người đối diện. Mỗi ngày, chỉ cần năm ba lần vái chào như thế, tôi cảm thấy bình an trong tâm hồn.
Riêng chuyện phải cởi bỏ giày dép mỗi khi vào nhà người khác, lúc đầu tôi cảm thấy lúng túng và ngay cả khó chịu. Về sau, một người bạn Thái đi cùng chuyến, giải thích cho tôi rằng với cử chỉ này, người Thái không chỉ muốn gìn giữ cho nhà cửa được sạch sẽ, mà chính là để bày tỏ sự tôn trọng đối với những người trong nhà mình đến thăm. Tôi chợt nghĩ: đâu chỉ có đền thờ của một số tôn giáo như Phật giáo, Hồi giáo...mới là nơi tôn nghiêm mà khi đi vào người ta cần phải cởi bỏ giày dép. Người Thái dạy cho tôi rằng bất cứ người nào mình vào thăm trong nhà cũng đều có một phẩm giá cao trọng cần được tôn trọng.
Thì ra, “nhập gia tùy tục” cũng có nghĩa là tỏ ra tôn trọng người khác, quan tâm đến những cảm xúc của họ, đón nhận cái hay cái đẹp trong văn hóa của họ và nhứt là sẵn sàng dũ bỏ những thứ râu ria, thừa thãi và ngay cả vô nghĩa cũng như làm phiền người khác trong truyền thống của mình.
Tôi nhớ hồi còn làm việc bên Phi Luật Tân, tôi có dịp tham dự một buổi trình diễn văn nghệ do người Việt tỵ nạn trong trại Bataan tổ chức. Trong một màn vũ do một số thiếu nữ Việt Nam trình diễn, một số người bạn Phi của tôi nhìn lên sân khấu với đôi mắt vừa tò mò vừa mỉa mai. Về sau, mấy ông bạn Phi này mới hỏi tôi về cách phục sức “truyền thống” nửa kín nửa hở (nghĩa là áo ngoài mỏng đến độ có thể thấy cả “nội y”) của người phụ nữ Việt Nam. Tôi không biết đó có phải là cách ăn mặc “truyền thống” của người phụ nữ Việt Nam không. Nhưng tôi nhận thấy, sau khi định cư tại các nước Tây Phương, dường như chẳng còn người phụ nữ Việt Nam nào nhân danh “truyền thống” để duy trì cách ăn mặc khiêu khích như thế nữa!
Nói chung, theo tôi, có những truyền thống tốt đẹp cần duy trì. Nhưng được hình thành vào một thời mà cách sống và kiến thức còn lạc hậu, không thiếu những truyền thống bị xem là lạc hậu mà một khi đã chọn một quốc gia Tây Phương làm quê hương mới, tôi không thể bám víu vào nữa. “Nhập gia tùy tục” đòi hỏi tôi phải chấp nhận và thích nghi với nếp sống văn hóa mới, những giá trị vốn làm nên văn minh của đất nước đã đón nhận tôi và cũng được tôi chấp nhận.
Tôi còn nhớ: dưới thời Thủ tướng Julia Gillard, khi một số người Hồi Giáo muốn sống theo luật Sharia của Hồi Giáo ngay trên đất Úc, nữ thủ tướng đầu tiên của nước này dường như được trích dẫn có nói: “Nếu bạn không cảm thấy hài lòng ở đây, bạn hãy rời bỏ nước này (có người dịch: hãy cút đi). Chúng tôi đã không cưỡng bách bạn đến đây. Bạn đã xin được ở đây. Vậy hãy chấp nhận xứ sở đã chấp nhận bạn”. Bà khẳng định: “Đây là xứ sở của chúng tôi, đất nước của chúng tôi và cách sống của chúng tôi và chúng tôi sẽ tạo mọi cơ hội để bạn hưởng được tất cả những điều đó. Nhưng nếu bạn cứ lải nhải, than phiền về Lá Cờ của chúng tôi, Lời tuyên thệ dưới cờ của chúng tôi, Niềm tin Kitô giáo của chúng tôi hay Cách sống của chúng tôi, tôi khuyên bạn hãy lợi dụng một trong những quyền tự do lớn nhứt của Úc Đại Lợi là “Quyền được ra đi”.
Nhiều người đặt nghi vấn về tính trung thực của những lời trên đây. Nhưng dù cho bà Gillard có nói những lời trên đây hay không, nguyên tắc “nhập gia tùy tục” vẫn đòi hỏi bất cứ một người di dân nào đến một xứ sở khác cũng đều phải tôn trọng luật pháp, phong tục và cách sống của xử sở ấy.
Tôi phục sát đất một số nhà truyền giáo Tây Phương khi đến truyền đạo tại một số nước Á Châu. Như trường hợp linh mục dòng tên người Ý Matteo Ricci (1552-1610). Nhờ bản đồ thế giới do ông vẽ và giải thích bằng tiếng Hoa mà các nhà thám hiểm Âu Châu mới lên đường tìm đến Đông Á. Nhưng ngoài một chút “ánh sáng văn minh” mà ông mang đến cho Trung Quốc, nhà truyền giáo này thường được nhắc đến nhiều nhứt do cách sống và phục sức hoàn toàn giống như một người Trung Hoa vào thời đó của ông. Dù có bế quan tỏa cảng và xem mình là “cái rốn của vũ trụ” cách mấy, triều đình Trung Hoa thời đó vẫn dành cho nhà truyền giáo này một chỗ đứng quan trọng vì ngưỡng mộ cung cách “nhập gia tùy tục” của ông.
Tôi cũng ngả mũ chào một số nhà truyền giáo Pháp tại Việt Nam: có người đã mặc chiếc áo dài của đàn ông cũng như lấy cả tên Việt Nam!
Xét cho cùng, nhập gia tùy tục cũng có nghĩa là bày tỏ sự tôn trọng đối với con người, những giá trị làm nên những truyền thống cao đẹp của đất nước nơi mình được đón nhận. Nhưng dĩ nhiên, nhập gia tùy tục cũng không hề có nghĩa là chối bỏ hay vứt đi những giá trị cao đẹp trong văn hóa và truyền thống của mình. Thật ra, cái cốt lõi của truyền thống dân tộc nào cũng đều tốt đẹp cả. Tôi có thể không còn ăn cơm bằng chén đũa và ngay cả không còn cảm thấy thèm cơm nữa. Tôi cũng có thể vứt bỏ chiếc áo dài khăn đóng. Tôi cũng chẳng còn tha thiết với không biết bao nhiêu phong tục tập quán của người Việt Nam. Nhưng cái cốt lõi chìm sâu trong các truyền thống và phong tục của người Việt Nam là lòng hiếu thảo, sự kính trên nhường dưới, tình tương thân tương ái, lòng biết ơn...vốn đã góp phần làm nên bản sắc con người của tôi, thì dù ở đâu và có hòa nhập vào văn minh xứ người đến độ nào, tôi cũng không thể nào quên hay xóa bỏ được. Và ngược lại, trong cố gắng “hội nhập văn hóa” hay “nhập gia tùy tục”, khi hòa mình với văn hóa và cách sống của đất nước đã cưu mang tôi, tôi vẫn nhận ra rằng mình đang sống những giá trị cốt lõi của truyền thống dân tộc. Thật ra, con người có thể khác nhau về mầu da, tiếng nói, văn hóa, phong tục tập quán và nhứt là tôn giáo, nhưng mọi người đều liên kết và gặp gỡ nhau trong cùng một thứ Đạo là Đạo làm người, tức Đạo luôn đòi hỏi con người phải cố gắng sống hòa hợp và hài hòa với nhau.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét