Chu Thập
16/10/14
Mỗi năm, cứ vào tháng 10, khi học sinh Úc bắt đầu thi tốt
nghiệp trung học, tôi lại nghĩ đến cái thời mình cũng “tấp tểnh người đi tớ
cũng đi”. Vào thời cụ Trần Tế Xương (1870-1907), chắc chắn thi cử không phải là
một cảnh ồn ào náo nhiệt như thời tôi thi tú tài vào khoảng giữa thập niên
1960. Vậy mà từ cái làng quê nghèo ở miền Trung của tôi, chỉ có lác đác vài người
mới học xong bậc trung học và “lều chõng” bước vào trường thi. Kết quả tú tài lại
càng gạn lọc hơn: từ đầu thôn đến cuối làng, may ra được hai, ba người có tên
trong bảng vàng và hầu hết là thanh niên. Tôi thấy thật tội nghiệp cho đám con
gái và các thiếu nữ trong làng tôi. Họa hiếm lắm mới có một người học xong
trung học. Phần lớn chỉ được cha mẹ cho phép bước qua ngạch cửa “bình dân học vụ”.
Biết đọc biết viết là khá lắm rồi. Đó là số phận của các bà chị của tôi. Vì
tình trạng kinh tế gia đình eo hẹp và có lẽ do quan niệm “thập nữ viết vô”
chăng, cha mẹ tôi chẳng chịu tạo điều kiện để các chị tôi được “ăn học” theo
đúng nghĩa như các anh em trai chúng tôi được hưởng. Chỉ mới 7,8 tuổi đã phải
lo bế em dắt cháu đi chơi. Lớn thêm một chút lại phải giặt giũ, đi chợ, nấu ăn
và dĩ nhiên chuẩn bị ngày ngày “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”.
Bước vào tuổi già, nghĩ lại tuổi thơ, tôi thấy thương các
chị của tôi. Lúc còn nhỏ, con trai được cưng chiều, cho “ăn học” đầy đủ để
thành thân. Nhưng rốt cục, chữ hiếu xem ra lại chỉ dành cho các bà chị thất học.
Ở tuổi già, khi không còn biết nương tựa vào đâu, nhứt là khi những người cộng
sản đã mang đến sự đói khổ và hai chữ bất hiếu, thì cha mẹ tôi chỉ còn biết
trông nhờ vào đôi vai gầy của các bà chị tôi.
Tôi không hề có ý mang chuyện thất học của các bà chị ra
để tố khổ cha mẹ tôi. Hoàn cảnh gia đình, trình độ giáo dục và nhận thức và nhứt
là quan niệm chung của hơn nửa thế kỷ trước đã không cho phép cha mẹ tôi có một
chọn lựa khác. Nhưng ngày nay, tôi thấy không thể tha thứ cho tất cả những ai
phải chịu trách nhiệm về tình trạng thất học và hoàn cảnh bi đát mà không biết
bao nhiêu trẻ em và thiếu nữ tại rất nhiều nơi trên thế giới phải lâm vào.
Với tôi, giải Nobel Hòa Bình năm nay được trao tặng cho cô nữ sinh người Pakistan Malala Yousafzai
và một người Ấn Độ chuyên hoạt động cho quyền trẻ em là ông Kailash Satyarthi,
là phần thưởng có ý nghĩa nhứt từ trước tới nay. Malala Yousafzai, cô nữ sinh
17 tuổi, rất xứng đáng để nhận giải thưởng cao quý này vì đã dám đưa cả mạng sống
của mình ra để tranh đấu cho quyền được cắp sách đến trường của trẻ em gái. Là
người trẻ tuổi nhứt được trao tặng giải Nobel Hòa Bình, cách đây 2 năm, Malala
đã từng bị một tay súng của Phong trào Cực đoan Taliban bắn trọng thương vì dám
công khai đứng ra chống lại chủ trương ngu dân hóa phụ nữ của phong trào này.
Khi chọn cô để trao giải thưởng, Ủy ban Nobel Hoa Bình đã đề cao “cuộc tranh đấu
anh dũng” của cô cho quyền được giáo dục của các thiếu nữ. Sau khi được mang đến
Anh Quốc để chữa trị vết thương nơi đầu, Malala đã được mời đến thuyết trình tại
Liên Hiệp Quốc cũng như gặp gỡ với tổng thống Barack Obama. Trong số ra cuối
năm ngoái, tạp chí Time đã xếp Malala vào hàng đầu trong số 100 nhân vật có ảnh
hưởng lớn nhứt trên thế giới ngày nay.
Về phần mình, người chia sẻ giải Nobel Hòa Bình năm nay với
cô Malala là ông Satyarthy đã được Ủy ban Nobel đề cao như một người đã duy trì
truyền thống của Mahatma Gandhi và lãnh đạo nhiều cuộc phản đối bất bạo động nhằm
kêu gọi chống lại việc khai thác trẻ em vì mục đích lợi nhuận. Là người đã sáng
lập Phong trào “Bachpan Bachao Andolan”, tức “Phong trào Cứu thoát Trẻ em”,
trong hơn 30 năm qua, ông Satyarthy đã
giúp giải thoát được khoảng 80 ngàn trẻ em, nhứt là các em gái, thoát khỏi cảnh
nô lệ và cưỡng bách lao động.
Thật ra, khi trao tặng giải Nobel Hòa Bình cho hai nhân vật
tranh đấu cho quyền trẻ em trên đây, Ủy ban Nobel không chỉ nhìn nhận thành
tích tranh đấu của họ, mà còn muốn gởi đi khắp thế giới một thông điệp đầy báo
động: bước vào thế kỷ 21 đã hơn một thập niên, thế giới vẫn còn đầy dẫy những
hành động chối bỏ, miệt thị, chà đạp đối với quyền của trẻ em và phụ nữ nói
chung. Phải chăng đây không là vết nhơ tồi tệ nhứt trong lịch sử nhân loại vào
giai đoạn này?
Thế giới lên án việc Tổ chức khủng bố “Quốc gia Hồi
giáo”, trên đường “tiến quân” đã xem trẻ em và phụ nữ như một thứ “chiến lợi phẩm”
và sử dụng họ làm bia đỡ đạn. Nhưng số phận của trẻ em gái và người phụ nữ tại
một số nước mà truyền thống tôn giáo chỉ xem như vật sở hữu của đàn ông hoặc
không có cùng phẩm giá như đàn ông, cũng bi đát không kém. Ngay cả ở một nơi mà mở miệng ra lúc nào người ta cũng
ra rả nói đến “giải phóng” như cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chẳng hạn, phẩm
giá của trẻ em gái và người phụ nữ nói chung lại còn thấp kém hơn bất cứ thời đại
nào trong lịch sử dân tộc. Có thời nào mà một tờ báo của cộng hòa nhân dân
Trung Quốc đã dám rao bán đàn bà Việt Nam như thế này không: “Mua một cô vợ Việt
Nam giá 6000 Mỹ kim. Bảo đảm còn trinh, bảo đảm giao hàng trong vòng 90 ngày,
không phụ phí, nếu cô ta trốn đi trong vòng một năm, được một cô khác miễn
phí”. Nếu chuyện người phụ nữ Việt Nam bị mang đi bán cho khắp tứ phương thiên
hạ xảy ra như cơm bữa và giữa thanh thiên bạch nhựt, thì một mẫu rao bán như
trên chắc chắn không phải là chuyện bịa đặt của các tổ chức chống cộng hay của
một thế lực thù địch nào cả. Trong một chế độ mà các giá trị đạo đức đã suy đồi
trầm trọng thì phẩm giá con người, cách riêng những người dễ bị tổn thương như
phụ nữ và trẻ em gái, có bị chà đạp như thế cũng là điều đương nhiên không thể
chối cãi được.
Thật ra, nói cho cùng, ở đâu mà chẳng có chuyện phẩm giá
con người bị miệt thị và chà đạp. Ở đâu mà chẳng có chuyện con người bị hạ xuống
hàng thú vật và đồ vật. Trong cuốn sách có tựa đề “Sống đẹp” (The Importance of
Living, bản dịch của Nguyễn Hiến Lê) mà tôi vẫn thường mang ra tụng niệm, nhà
văn Trung Hoa Lâm Ngữ Đường đã có một nhận xét khiến cho người Tây Phương, đặc
biệt là người Mỹ phải suy nghĩ: “Phụ nữ Mỹ
tìm đủ cách để làm đẹp lòng đàn ông, họ rất săn sóc đến cái duyên dáng của thân
thể họ, ăn bận một cách thật hấp dẫn...Chưa bao giờ người ta khai thác thân thể
phụ nữ như ngày nay, khai thác về thương mãi, từ những đường cong, những uyển
chuyển của các bắp thịt tới những móng tay móng chân sơn màu; và tôi không hiểu
tại sao phụ nữ Mỹ ngoan ngoãn chịu cho người ta khai thác đến thế...Một người
phương Đông sẽ cho như vậy là không tôn trọng đàn bà. Các nghệ sĩ gọi cái đó là
cái đẹp, khán giả gọi cái đó là nghệ thuật, chỉ những nhà dàn cảnh và các ông bầu
hát mới ngay thẳng gọi đó là “gợi tình” (sex appeal) và đàn ông thường lấy vậy
làm thích. Hiện tượng đó quả là hiện tượng đặc biệt của một xã hội tạo ra vì
đàn ông, do đàn ông chỉ huy, một xã hội trong đó đàn bà khỏa thân bị đem ra trước
công chúng vì mục đích thương mãi, còn đàn ông thì gần như không khi nào bị vậy,
trừ vài anh mãi võ”.
Nhận xét trên đây đã được nhà văn Lâm Ngữ Đường đưa ra
cách đây cũng trên nửa thế kỷ. Ngày nay, nhìn vào kỹ nghệ giải trí trên khăp thế
giới, sự thương mãi hóa, tức bán buôn thân thể người phụ nữ và dĩ nhiên phẩm
giá của họ, xem ra càng công khai và táo bạo hơn. Như ông Lâm Ngữ Đường đã nói,
xã hội, dù có văn minh tiến bộ đến đâu, dường như đều được “tạo ra vì đàn ông,
do đàn ông chỉ huy”. Ngay cả trong tôn giáo, vốn phải là sức mạnh giải phóng,
tôi vẫn cảm thấy lấn cấn khi phải nói về sự bình đẳng nam nữ.
Tôi không dám lạm bàn về chiếc áo “burqa” trùm kín từ đầu
đến chân của người phụ nữ Hồi giáo hoặc nghi thức cắt âm vật phụ nữ vẫn còn được
cử hành tại một số nước theo Hồi giáo. Nhưng là “con nhà có đạo”, tôi lại thấy
mình được tự do để thắc mắc về chuyện niềm tin của cá nhân tôi. Chẳng hạn, tôi
vẫn cứ thắc mắc không biết tại sao trong quyển sách đầu tiên của Kinh Thánh là
Sáng Thế Ký, ở đầu chương 6, tác giả viết một câu mà các tín hữu phải trân trọng
đón nhận như Lời Chúa như sau: “Vậy khi loài người bắt đầu thêm đông trên mặt đất,
và sinh ra những con gái, thì các con trai Thiên Chúa thấy con gái loài người
xinh đẹp; những cô họ ưng ý thì họ lấy làm vợ”. Tôi tự hỏi: nếu như tác giả được
Thiên Chúa linh ứng để viết Kinh Thánh là một phụ nữ thì liệu họ có đảo lộn để
viết thành “con gái Thiên Chúa và con trai loài người không?”
.jpg)
Những cuộc biểu tình đòi dân chủ tại HongKong mang lại
cho tôi một tia hy vọng. Chính quyền cộng sản Trung Quốc chưa muốn hay không
dám lập lại một Thiên An Môn thứ hai. Còn nếu điều này xảy ra thì đây sẽ là chiến
bại tồi tệ nhứt của Trung Quốc: sức mạnh cơ bắp chỉ là mặt trái của sự sợ hãi
và yếu nhược!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét