Chu Thập 5/10/10
Một hôm, thằng
bé con người hàng xóm đến gõ cửa xin được rửa chiếc xe đang đậu ngoài trời của
tôi. Từ lâu nay, chiếc xe cà tàng lại rỗ chằng rỗ chịt vì mưa đá ít được tôi
chăm sóc. Phần vì chiếc xe đã quá “date”, phần vì tiết kiệm từng giọt nước, cho
nên tôi cứ bỏ thí cho trời lo; thỉnh thoảng có được một trận mưa thì tốt, không
thì cũng chẳng sao.
Tôi thấy hơi bị
chạm tự ái khi một thằng bé 7, 8 tuổi muốn dạy cho tôi một bài học về việc phải
“bảo trì” các vật dụng. Tôi định nói “sorry” và đóng cửa lại. Nhưng thấy tôi chần
chừ, thằng bé liền giải thích rằng nó muốn rửa xe để “quyên tiền”. Nghe đến mấy
chữ “quyên tiền” là tôi gật đầu đồng ý ngay.
Mấy đứa trẻ
trong khu xóm của tôi thường làm chuyện này. Không có đủ “kỹ năng” để rửa xe
như cậu bé con ông hàng xóm thì bọn con gái lại đi bán bánh kẹo. Tôi không phải
là dân hảo ngọt, vì sợ bị tiểu đường. Nhưng cứ nghe nói đến “quyên tiền” là tôi
liền tháo hầu bao ngay. Những hộp chocolate và bánh ngọt mua của lũ trẻ, tôi cứ
giữ như những “kỷ vật” để thỉnh thoảng nhìn ngắm và tự nhắc nhở về những niềm
vui nhỏ mình có thể mang lại cho trẻ con.
Lúc nhỏ, tôi
không được dạy dỗ để biết “quyên tiền” cho nhà trường hay các tổ chức từ thiện
như trẻ con trong xã hội văn minh ngày nay. Nhưng bù lại, tôi đã tự học biết
giá trị của lao động. Nếu xét theo tiêu chuẩn của xã hội văn minh ngày nay thì
có lẽ cha mẹ tôi đáng phải bị truy tố ra tòa vì tội “cưỡng bách trẻ con lao động”.
Nhà tôi đông con. Đứa trẻ nào trong gia đình cũng đều có kinh nghiệm về việc
cày cấy và gặt hái. Trước khi người cộng sản mang cái khẩu hiệu “lao động là
vinh quang” đi treo ở khắp mọi hang cùng ngỏ hẽm, thì một thằng nhóc như
tôi cũng đã biết được thế nào là “đổ mồ
hôi xót con mắt” khi phải “bán lưng cho trời bán mặt cho đất”.
Nhưng dĩ nhiên,
tôi không chỉ tốt nghiệp từ mái trường lao động của gia đình, mà còn học được
thế nào là lương thiện trong lao động. Thời thái bình cửa thường mở ngỏ, những
người nông dân nghèo như cha mẹ tôi lao động vất vả, nhưng không phải rơi vào
cái cảnh cướp giựt hay lường gạt nhau. Dối trá, lươn lẹo thì thời nào và ở đâu
cũng có, nhưng không hề là luật sống của xã hội khi tôi còn nhỏ. Trẻ con nào mà
chẳng biết nói dối, nhưng ít nhứt đây không phải là bài học do thày cô truyền đạt
như dưới mái trường xã hội chủ nghĩa.
Tôi còn nhớ: sau
1975, tôi sống bên cạnh một tu viện. Trước 75, các nữ tu trong tu viện trông
coi một cô nhi viện và một trường trung tiểu học. Sau khi chiếm cô nhi viện và
trường học, những người cộng sản chỉ để lại cho các nữ tu một ngôi nhà nhỏ. Một
buổi sáng nọ, vào cái thời mà bất cứ cái gì cũng có thể bị “ăn cắp”, các nữ tu
sợ thất kinh hồn vía khi khám phá một lỗ hổng trong bức tường xung quanh nhà. Mỗi
ngày cái lỗ hổng lại lớn dần, những viên gạch không có cánh mà bay dần đi đâu hết.
Sau nhiều ngày cho người rình xem, các nữ tu mới khám phá ra rằng thủ phạm
không ai khác hơn là cái đám học sinh của ngôi trường tiểu học mà các vị chăm
sóc trước 1975. Thì ra, vào thời ấy, các trường thường thi đua làm đủ thứ “kế
hoạch lớn”, “kế hoạch nhỏ”. “Nhỏ” chẳng hạn như thu lượm giấy rác trong nhà để
mang đến trường cân ký bán. “Lớn” như mỗi em phải đóng góp một viên gạch để chỉnh
trang cái công viên của trường. Sau 75, một cây đinh cũng tìm không ra chứ đừng
nói đến một viên gạch. Vậy là tiện đường đi ngang qua tu viện, mỗi em cứ “vô
tư” moi một viên gạch trong bức tường và mang đến trường để thực hiện “kế hoạch
lớn”. Tôi tin chắc là ngoài bức tường của tu viện, còn có rất nhiều cơ sở tư
nhân khác đã phải “đóng góp” những viên gạch cho cái kế hoạch lớn xã hội chủ
nghĩa đó. Và dĩ nhiên, mặc cho ai có than trách về những thiệt hại ấy, thày cô
trong trường vẫn “vô tư” báo cáo thành tích của mình trong việc thực hiện các kế
hoạch lớn nhỏ. Tôi cứ nghĩ: mỗi một viên gạch mà các em học sinh tiểu học đã “đánh
cắp” từ bức tường của tu viện cũng là mỗi một viên gạch xây dựng cho cái lâu
đài “dối trá”, lươn lẹo, cướp bóc mà những người cộng sản đã thiết kế trên quê
hương.
Cùng với tính
lương thiện và sự chân thật, những người cộng sản cũng cướp đi mọi giá trị tinh
thần và đạo đức của xã hội. Với khẩu hiệu “lao động là vinh quang”, cuộc sống
con người bị giản lược vào một chiều kích duy nhứt là “sản xuất” và dĩ nhiên sản xuất bằng tay chân. Lao động trí
óc cũng như trí thức bị so sánh không hơn “cục phân” trong xã hội xã hội chủ
nghĩa. Nói chi đến những hoạt động tinh thần và thiêng liêng của các tôn giáo:
tiếng chuông và tiếng cầu kinh trong giáo đường, tiếng tụng kinh gõ mõ trong
chùa phải im tiếng để nhường chỗ cho tiếng kẻng của nông hội. Lao động chỉ còn
lại một chiều kích là lao động sản xuất. Cuộc sống của con người chỉ còn được
cân đo, đong đếm bằng tiền bạc và của cải vật chất.
Thực ra, không
riêng gì các nước cộng sản tuyên xưng duy vật chủ nghĩa như tôn giáo, các xã hội
tiêu thụ cũng ngày càng giản lược giá trị con người và cuộc sống vào một chiều
kích duy nhứt là tiền của. Người ta thường đánh giá con người qua đồng lương kiếm
được mỗi năm. Người giàu có của cải vật chất vẫn là người được trọng vọng trong
xã hội. Làm giàu vẫn là lý tưởng được nhiều người đeo đuổi.
Mới đây, tôi đọc
được một bản tin đáng suy nghĩ trên tập san “Eglises d’ Asie” (Các Giáo hội Á
Châu) của Hội Thừa Sai Paris. Hội Thừa Sai Paris là một hiệp hội qui tụ các nhà
truyền giáo người Pháp đã từng đến Việt nam làm việc ngay từ khởi đầu của lịch
sử công giáo tại Việt nam. Sau 1975, tất cả đều bị trục xuất ra khỏi Việt nam.
Hiện các linh mục của Hiệp hội này vẫn còn làm việc tại hầu hết các nơi trên thế
giới, nhứt là tại Á Châu.
Trong một bản
tin đề ngày 28/ 9/10 vừa qua, tập san “Các Giáo hội Á Châu” cho biết: một đại học
công giáo có phân khoa dành cho các tu sĩ và chủng sinh tại Nam Hàn đã bị chính
phủ nước này xem như một nơi “sản xuất những người thất nghiệp”, do đó đã bị “giáng
cấp” và gạch tên khỏi danh sách những đại học có thế giá nhứt tại Nam Hàn.
Bản tin viết rằng
trong khuôn khổ của một chương trình thẩm định toàn quốc, Bộ Giáo dục, Khoa học
và Kỹ thuật Nam Hàn đã gạch tên trường đại học công giáo Suwon ra khỏi danh
sách 30 trường đại học nổi tiếng nhứt tại nước này. Lý do là vì đại học này
không còn đáp ứng được hai tiêu chuẩn được Bộ Giáo dục, Khoa học và Kỹ thuật đề
ra: con số sinh viên ghi danh mỗi năm và khả năng tìm được việc làm của các
sinh viên tốt nghiệp. Sở dĩ Đại học công giáo này không đáp ứng được hai tiêu
chuẩn trên đây là vì gần đây đại học này mở thêm phân khoa thần học dành riêng
cho các tu sĩ và chủng sinh. Sau bốn năm theo học, phần đông các sinh viên “tốt
nghiệp” tại phân khoa này trở về các giáo phận và dòng tu của họ. Là tu sĩ, dĩ
nhiên, họ được các thống kê của chính phủ
xếp vào loại “thất nghiệp” bởi vì không có “lao động sản xuất”.
Một linh mục giảng
huấn tại trường đại học công giáo Suwon nói một cách mỉa mai rằng “dưới mắt Bộ
Giáo dục, Khoa học và Kỹ thuật Nam Hàn, trường đại học Suwon chỉ đào tạo những
người thất nghiệp.” (Eglises d’ Asie, 28/9/2010)
Cách thẩm định của
Bộ Giáo dục, Khoa học và Kỹ thuật Nam Hàn đối với đại học Suwon chẳng khác nào
cái nhìn của những người cộng sản Việt nam
đối với các tu sĩ và các sinh hoạt tôn giáo. Phải chăng tu sĩ là một loại
người “phi sản xuất” chuyên ăn bám xã hội? Trong cuốn sách có tựa đề “The Art
of Happiness at Work” (Nghệ thuật Hạnh phúc trong Lao động), Đức Đạt Lai Lạt
Ma, nhà lãnh đạo tinh thần của Tây Tạng, đã nêu lên vấn đề này. Cuốn sách là một thu thập từ những
trao đổi của nhà lãnh đạo phật giáo này với bác sĩ Howard Cutler, một chuyên
gia tâm lý người Mỹ. Trong cuộc trao đổi, bác sĩ Cutler nhìn nhận rằng “nói
chung tại Tây phương, nếu có một tu sĩ và tất cả công việc của người đó chỉ là
ngồi trong một hang động và thiền niệm suốt ngày, thì người ta sẽ cho rằng đây
là một công việc “phi sản xuất”. Theo ông, trong cách nhìn chung, lao động sản
xuất là làm một công việc nào đó có ảnh hưởng đến môi trường sống, sản xuất hay
thực hiện một cái gì đó trong thế giới. Nói cách khác, sản xuất là làm ra được
những gì có thể đo lường hay cân đo được.
Nghe thế, Đức Đạt
Lai La Ma liền cười và nói đùa: “Hiểu như thế thì những giờ ngồi thiền của tôi
mỗi buổi sáng là phi sản xuất, phải không?” Là một người đã từng sống dưới chế độ cộng sản,
nhà lãnh đạo Tây Tạng lưu vong này nói rằng cách hiểu về lao động khác nhau tùy
theo mỗi xã hội và văn hóa. Chẳng hạn, một xã hội cộng sản có thể xem hoạt động
“tuyên truyền”, nhồi sọ v.v là một lao động sản xuất, trong khi đó một xã hội
không cộng sản lại xem đó là những hoạt động phi sản xuất, nếu không muốn nói
là “độc hại”.
Về vấn đề này, Đức
Đạt Lai Lạt Ma muốn nhấn mạnh đến tính “độc hại” và “hữu ích” của sản xuất. Theo
ngài, hoạt động sản xuất thực sự là hoạt động không gây nguy hại cho người
khác. Đức quốc xã hay cộng sản là những người đã sản xuất ra vũ khí giết người
và độc hại. So sánh với những hoạt động sản xuất độc hại này, ngồi thiền hay
nói chung cuộc sống tu trì xem ra không mang lại những kết quả vật chất cụ thể
nào, nhưng ít nhứt đây không phải là những hoạt động “độc hại”, mà trái lại còn
hữu ích cho tha nhân là khác. (His Holiness the Dalai Lama and Howard C.
Cutler, M.D The Art of Happiness at Work, Holder Headline Australia Pty
Limited, 2003)
Từ suy nghĩ trên
đây của một nhà tu “chuyên nghiệp” như Đức Đạt Lai Lạt Ma, tôi chợt nhớ đến một
câu chuyện ngắn của nhà văn Nguyễn Khải trong nước. Một vài năm trước khi chết,
nhà văn này đã để lại một chúc thư đáng suy nghĩ trong bài viết có tựa đề “Đi
tìm cái tôi đã mất”. Ông có ý nói rằng trong bao nhiêu năm cúc cung phục vụ chế
độ cộng sản, ông đã đánh mất chính mình trong sự dối trá và lừa gạt người khác.
Trước đó không lâu, trong một truyện ngắn, ông kể lại tâm sự của một viên bí
thư cộng sản nào đó đến “công tác” tại một làng quê. Viên bí thư này cho trùng
tu lại ngôi chùa đổ nát, mời một vị sư về trụ trì, rồi đưa ra nhận xét: sáng một
hồi chuông, tối một hồi chuông, tên cướp nào sừng sỏ mấy nghe mãi cũng phải có
lúc phải hồi tâm.
Có lẽ ông Nguyễn
Khải muốn nhắc khéo với người cộng sản rằng việc kéo chuông, tụng kinh gõ mõ của
nhà sư nói riêng và các hoạt động tôn giáo nói chung, không “phi sản xuất” đâu.
Những hoạt động ấy không trực tiếp làm ra cơm bánh, nhưng có sức động viên tín
hữu hăng hái “lao động sản xuất” và nhứt là cảm hóa được lòng người để bớt đi
ít nhứt là một tên cướp cho cái xã hội trống rỗng những giá trị đạo đức như xã
hội cộng sản.
Tôi nghĩ đến
hàng hàng lớp lớp các tăng lữ tại các nước Phật giáo như Thái Lan, Cam bốt, Sri
Lanka, Myanmar. Hành động khất thực mỗi ngày của họ không hề là một hoạt động “phi
sản xuất”, bởi lẽ cuộc sống siêu thoát của họ không ngừng là một tra vấn cho một
xã hội giàu vật chất nhưng nghèo giá trị tinh thần.
Tôi cũng nghĩ đến
những thành phần “ăn theo” trong xã hội như các bệnh nhân, người khuyết tật, các
cụ già trong các viện dưỡng lão, những người vô gia cư, những người hành khất…Họ
không phải là thành phần “phi sản xuất” đâu, bởi lẽ sự hiện diện của họ không
ngừng là một nhắc nhở cho chúng ta về thực trạng đời sống, trách nhiệm liên đới,
chia sẻ, cảm thông .v.v
Người ta có thể
đánh giá người khác qua quan niệm về giá trị của mỗi người, nhưng không ai có
thể phủ nhận rằng, dù cho họ bị liệt vào thành phần “phi sản xuất” thì sự hiện
diện của họ trong thế giới này cũng vẫn là một đóng góp giá trị và có ý nghĩa.
Tựu trung, cần
có những người như thế hiện diện để nói với chúng ta rằng giá trị đích thực của
con người không chỉ được đo lường bằng tiền bạc, của cải, danh vọng hay những
gì mình làm ra được, mà chính là con người của mình. Với những người có niềm
tin Kitô, thì sự hiện diện của những người như thế hẳn phải gợi lại lời Kinh
Thánh dạy: “Con người không chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng những Lời do miệng
Thiên Chúa phán ra.”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét