Thứ Tư, 15 tháng 10, 2014

Sinh Lão Bệnh Tử 1

Tử
Chu Thập 
23/11/10

Hôm nọ, tôi tình cờ nhìn thấy những vết bầm trên tay của chị bạn làm y tá điều dưỡng. Thấy tôi thắc mắc, chị cười cười giải thích: Số là, đêm hôm trước, chị phải săn sóc cho một cụ bà đang trải qua những giờ phút cuối cùng. Bà bị ung thư ở giai đoạn cuối. Với tuổi đời đã hơn chín mươi và có một cá tính mạnh mẽ, bà từ chối chạy chữa và muốn được “nguyên vẹn hình hài” để thanh thản ra đi. Không những thế, bà cũng từ chối luôn việc tiêm thuốc giảm đau. Bà biết rằng thuốc giảm đau sẽ làm cho bà rơi vào trạng thái lơ mơ. Mà như bà đã từng bộc lộ ước ao được “sống” một cách trọn vẹn, bằng tất cả những cảm nhận minh mẫn từ thể xác cũng như tinh thần cho đến lúc mãn phần. Đối với bà, đau đớn cũng là một phần của đời sống. Và bà muốn chấp nhận như đã hưởng một cuộc đời thật dài với tất cả mùi vị ngọt ngào, đắng cay.
Ở một nước Úc luôn tôn trọng phẩm giá con người, thông thường, người ta không ngừng dùng mọi phương tiện để giúp một người phải trải qua những đau đớn trong thân xác được thanh thản. Tuy không tán thành việc bệnh nhân trải qua đau đớn, tất cả mọi nhân viên y tế vẫn tôn trọng sự chọn lựa và quyết định của bà. Bởi vì, ai cũng có quyền chuẩn bị những giờ phút cuối đời theo ý muốn riêng trong khuôn khổ đạo đức và luật pháp như tất cả mọi quyền tự do khác trong suốt cuộc đời của họ.
Suốt hai tuần cuối cùng, bà chịu đựng một cách thật can đảm những cơn đau. Bù lại, bà có những giây phút tỉnh táo để nói một câu với người này, một lời với người khác. Ai cũng bùi ngùi xúc động. Không còn thân nhân nhưng bà cũng chẳng muốn làm phiền nhiều. Bà thường nắm lấy song giường mỗi khi đau đớn. Trong đêm đó, để hỗ trợ tinh thần của bà, chị y tá đã ngồi bên bà suốt đêm. Bà đã nắm tay chị trong giấc ngủ chập chờn. Mỗi khi đau thì bà lại nắm chặt chị hơn. Cũng nhờ vậy mà chị chia sẻ được cường độ cơn đau của bà. Đến gần sáng, bà ra đi sau một cái siết tay thật mạnh, để lại cho chị một sự xúc động, kính trọng và cảm phục sâu xa, và đương nhiên, cả những vết bầm “dịu dàng” trên tay.
Bà đã ra đi sau khi đã “sống” một cách ý nghĩa mọi phút giây trong đời sống của mình.
Câu chuyện của bà không hiểu sao lại làm cho tôi suy nghĩ thật nhiều và theo đuổi tôi mãi. Nếu tôi nghe câu chuyện này khi còn ở tuổi 20, hay 30, 40 hoặc ngay cả 50, có lẽ tôi cũng chỉ thấy cảm thương, bùi ngùi trong một lúc. Còn bây giờ thì đúng là “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay.” Ở tuổi “nhìn lại mình đời đã xanh rêu” hay “muối lấn át tiêu”, tôi thực sự thấy “quan tâm” đến cái gì chắc chắn sẽ chờ đợi mình ở cuối đời. Đến lúc này tôi mới hiểu tại sao người ta lại tốn nhiều thời gian, công sức và tiền của chỉ để chuẩn bị cho cái chết. Câu nói “Đông và Tây không bao giờ gặp nhau” có lẽ không còn đúng trong trường hợp này. Đông hay Tây, ở đâu con người cũng loay hoay “chuẩn bị” cho cái chết của mình.
Tây phương, vốn chịu ảnh hưởng của triết lý Hy lạp, xem việc chuẩn bị cho cái chết là một đòi hỏi của minh triết. Vào thế kỷ thứ 5 trước công nguyên, nhà hiền triết Sorates bị một tòa án tại Athenes gồm 501 thẩm phán xét xử về tội không nhìn nhận các thần minh của thành phố. Số đông đã kết án tử hình ông về tội không những đã chối bỏ các thần minh mà còn đầu độc giới trẻ.
Người ta cho ông một cơ hội để trốn thoát. Nhưng ông từ chối và tuyên bố rằng “không ai biết rằng cái chết là điều thiện hảo lớn lao nhứt” đối với con người. Trong tác phẩm Phaedo, người môn sinh của ông là triết gia Plato có ghi lại câu nói của ông: nếu triết lý có nghĩa là yêu thích sự khôn ngoan, thì chuẩn bị chết cũng chính là yêu thích sự khôn ngoan.
Được xem là nhà hiền triết ngông cuồng nhứt của thời cổ Hy lạp, một người đương thời của ông Socrates là Diogenes cũng xem việc chuẩn bị chết như công việc chính của đời người. Ông là người duy nhứt dám có thái độ khinh thị đối với đại đế Alexandre mà không hề hấn gì. Một hôm, ông đứng say sưa ngắm nhìn một đống xương người. Tình cờ đi qua, thấy thái độ lạ lùng của cụ già, đại đế Alexandre mới hỏi ông đang làm gì. Nhà hiền triết mới trả lời: “Hạ thần đang tìm kiếm những cái xương của thân phụ bệ hạ. Nhưng hạ thần không thể nào phân biệt được đâu là xương của thân phụ ngài, đâu là xương của những người nô lệ.”
Cộng với minh triết Hy lạp, truyền thống Kitô giáo vốn xem cuộc đời như hoa sớm nở tối tàn cho nên cũng xem việc “dọn mình chết lành” là một thái độ nền tảng trong cuộc sống của người tín hữu Kitô. Vào thời mà giáo quyền và thế quyền đan quyện với nhau, quyền lực và vinh quang trần thế dễ làm cho các nhà lãnh đạo Giáo hội bị hủ hóa, các vị giáo hoàng thường được nhắc nhở chân lý ấy. Trong nghi thức đăng quang của các vị giáo hoàng thời xa xưa, người ta mang đến một cái sọ người và đốt một loại cỏ đặc biệt ba lần và mỗi lần đều lập lại với vị tân giáo hoàng như sau: “Thưa đức thánh cha, vinh quang trần thế qua đi như thế đó.”
Lịch sử Kitô giáo tại Tây Phương không chỉ là những trang được viết bằng những cuộc thập tự viễn chinh hay những bước chân thừa sai đồng hành với những cuộc chinh phục và thực dân tại các nước nhược tiểu, mà còn bằng vô số những gương thánh thiện của những vị thánh và các tín hữu sống siêu thoát, từ bỏ mọi sự, đêm ngày hy sinh quên mình vì tha nhân và xem cuộc sống như một cuộc lữ hành tiến về cõi vinh phúc vĩnh cửu. Tựu trung, như thánh Phanxicô Assisi, vị sứ giả Hòa bình muôn thuở,  Kitô giáo xem cái chết như một người Bạn và là một người Chị Em.
Đông phương hay đúng hơn Á Châu cũng có cùng một cái nhìn như thế về sự chết.
Lúc nhỏ, trong làng tôi, tôi đã tận mắt chứng kiến cái cảnh không biết bao nhiêu “cụ già” tuổi chưa tới 60 đã tậu hay tự đóng cho mình một chiếc quan tài và đặt ở sau nhà hay ngay trong nhà, gần giường ngủ của mình. Có thể vào thời đó, quan tài là cả một gia tài. Nhưng sự hiện diện của một chiếc quan tài trong nhà hẳn phải nhắc nhở con người chuẩn bị cho sự ra đi vĩnh viễn của mình.
Suy ngẫm bên chiếc quan tài đặt trong nhà là điều quá quen thuộc đối với người Á châu. Thời xa xưa, một nhà sư nào đó bên Tàu thường bày trên án thư, trước chỗ ngồi một chiếc quan tài con bằng gỗ bạch đàn, dài độ ba tấc, có một cái nắp đậy và mở được. Khách đến nhà trông thấy,  tò mò hỏi, nhà sư thường trả lời như sau: “Người ta sống tất có chết, mà chết thì vào ngay cái này. Tôi thực lấy làm lạ, người đời ai cũng chỉ biết phú quý, công danh, tài sắc, thị hiếu, lo buồn, vất vả suốt đời, chẳng biết đến cái chết là gì…Mỗi khi có việc không được như ý, tôi cầm lấy chiếc quan tài mà ngắm, tức khắc tôi cảm thấy được yên ổn trong tâm hồn ngay.” (x. Cổ học tinh hoa)
Dĩ nhiên, không phải mọi dân tộc Á châu, ngay cả những dân tộc chịu ảnh hưởng Khổng Giáo hay Lão Giáo đều có cùng một quan niệm về cái chết. Người Nhựt bản nổi tiếng xem cái chết nhẹ tựa tơ hồng. Nhà văn Võ Phiến, trong một bài viết hồi năm 2000, đã nói đến hiện tượng “tự chết” của người Nhựt trong những năm cuối thế kỷ 20 vừa qua. Từ trước đây năm trăm năm, người Nhựt đã từng duyệt lại tục lệ cũ, đặt ra bao nhiêu lề luật để tiến hành nghiêm chỉnh các cuộc “tự chết” gọi là Hara-kiri. Tác giả Võ Phiến viết rằng “tự tử là một sở trường của người Nhựt Bản: họ chết nhiều, họ chết có phép tắc tử tế”.
Có đủ mọi lý do khiến người Nhựt “tự chết”: tự tử vì thất bại trong chiến tranh, tự tử vì kinh doanh thua lỗ, tự tử vì yêu nhau gặp trục trặc, học sinh thi trượt cũng tử tử.
Theo nhà văn Võ Phiến, văn nhân Nhựt bản tự tử cũng nhiều. Nổi tiếng nhứt là vụ tự tử của nhà văn Yukio Mishima. Ông chọn chết ngay tại Bộ quốc phòng. “Sáng sớm, trên một chiếc xe mới toanh, nhà văn cùng bốn môn đệ kéo đến, trói gô ông tướng tư lệnh, tập hợp binh sĩ lại, Mishima ra bao lớn diễn thuyết một hồi, rồi trở vào phòng mổ bụng, đường đường lẫm liệt. Lúc bấy giờ Mishima đang độ sáng tác dồi dào, được hoan nghênh săn đón nồng nhiệt. Ngày 25 tháng 11 năm 1970 ấy, vào lúc mờ sáng, ông ký tên vào trang bản thảo cuối cùng của một bộ truyện dài bốn cuốn, để sẵn trên bàn cho nhà xuất bản đến nhận, như đã hẹn.” (Võ Phiến, Võ Phiến Tuyển Tập, Người Việt, trg 354)
Nhà văn Võ Phiến cho rằng thất bại, khổ đau, không phải là yếu tố gây nên những cái chết của các nhà văn. Không ai hiểu được động lực nào đã thúc đẩy họ “tự chết”. Thân mẫu của ông Mishima giải thích rằng: “Đây là lần đầu tiên trong đời ông ta đã làm được điều mà ông ta muốn làm.”
Nhưng làm được điều gì? Ông Võ Phiến cho rằng “tự chết”, nhứt là “tự chết” như những nhà văn Nhựt Bản là một “cách phát biểu”. Tác giả bình luận: “Cuối thế kỷ này người Nhật hình như có làm quá đáng trong việc tự chết. Người Nhật phát biểu quá nhiều, chận ngay lời phát biểu của ông Trời, làm ông tưng hửng, chúng ta tưởng tượng “Trời hẳn phải nhăn mặt gắt: “Bố láo”. Có thế chăng?” (sđd)
Con người quả là “bố láo” khi dành lấy cái công việc lẽ ra chỉ thuộc về “Ông Trời”. Thật vậy, chỉ có Ông Trời mới có quyền phát biểu về cái “lẽ sống chết” của con người. Mà ở đời, hễ thuận với Trời thì sống, mà nghịch với Trời thì chết vậy. Theo quy luật muôn đời, ai cũng phải chết. Nói cho có giọng triết lý một chút, thì có người lại bảo “con người sinh ra là để chết”. Nếu vậy thì hóa ra cuộc đời này chẳng đáng sống chút nào cả. Đây là luận điệu ẩn tàng sau bất cứ một vụ tự tử nào. Xét cho cùng chẳng có ai tự tử “cho vui” cả. Như nhà văn Võ Phiến đã nhận xét, “phần lớn các vụ tự tử chẳng qua là để bày tỏ một sự tuyệt vọng, một phẫn uất, một giận hờn, phản đối, oán trách, thù hận…”. Những tên đặc công trong chiến tranh khủng bố hay những kẻ “ôm bom tuẫn giáo” ngày nay có lẽ cũng “tự chết” với thù hận mà thôi.
Vẫn biết “con người sinh ra là để chết”, nhưng câu hỏi nghìn đời vẫn là “cuộc đời có đáng sống không?” Nếu cuộc đời là “đáng sống” và ngay cả những giây phút cuối đời cũng là “đáng sống” thì vấn đề sẽ không còn là phải chuẩn bị chết như thế nào mà là phải sống như thế nào.
Những giây phút cuối đời “đáng sống” của lão bà trong viện dưỡng lão trên đây làm tôi nhớ lại những ngày cuối đời của nhạc sĩ Ý nổi tiếng Giacomo Secondo Maria Puccini. Khi bị chẩn đoán mắc bệnh ung thư, ông liền quyết định dành những ngày cuối đời để viết vở nhạc kịch “Turnandot”. Bạn bè và đệ tử của ông khuyên ông nên tĩnh dưỡng. Ông nói rằng ông làm tất cả để hoàn tất tác phẩm để đời; nếu ông không thực hiện được thì chính họ sẽ tiếp tục công trình.
Ông Puccini đã qua đời và tác phẩm bị bỏ dở. Vào năm 1926, hai năm sau khi Puccini qua đời, nhạc trưởng tài ba Arturo Toscanini đã điều khiển vở nhạc kịch “Turnandot” tại Hí viện  La Scala Opera ở Milano, Bắc Ý. Tác phẩm vừa là một kiệt tác để đời của ông Puccini trong những ngày cuối đời, vừa là một đóng góp của bạn hữu và đệ tử của ông.
Những ngày cuối tháng 11 là tháng mà truyền thống Kitô giáo dành riêng để tưởng nhớ người quá cố và suy gẫm về cái chết, tự nhiên tôi nhớ lại câu nói của một vị thánh trẻ. Khi được hỏi: nếu biết chỉ còn vài phút nữa sẽ chết, em sẽ làm gì, người thiếu niên không ngần ngại trả lời rằng em sẽ tiếp tục chơi.
Sống thật sự sung mãn những giây phút mình đang có, dù đó là những giây phút cuối đời, phải chăng không là một cách chuẩn bị chết?
Chu Thập 23.11.2010 










Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét