Chu Thập
3.10.14
Cho tới nay tôi vẫn chưa biết cái chết của một người cỡi mô tô mà tôi đã chứng
kiến hôm thứ sáu tuần trước là một vụ tự tử hay là một tai nạn giao thông. Lạ
quá, các cơ quan truyền thông kể cả báo địa phương không đá động gì đến vụ này.
Nhưng chuyện xảy ra trước mắt cho nên tôi cứ bị ám ảnh.
Bãi câu quen thuộc của tôi là một nơi tương đối yên tĩnh. Cuối tuần, thỉnh thoảng cũng có nhạc
kích động hoặc tiếng cười đùa la hét của dân nhậu phát ra từ mấy cái “hộp đêm”
bên cạnh. Ngoài ra, người ta ít nghe tiếng ồn của giao thông. Vậy mà tối thứ
sáu tuần trước, không rõ một quái kiệt mô tô lạc đường từ đâu đã xuất hiện trên
con đường cách con kênh nơi tôi đứng câu không đầy 100 thước. Trong ánh sáng mập
mờ bên đường, tôi không nhìn rõ khuôn mặt của anh, nhưng tôi đoán không phải là
một người đứng tuổi. Con đường dài không tới một cây số, thông thường rất yên ắng,
bỗng biến thành một thứ phi đạo để chiếc xe mô tô lướt như bay theo đúng nghĩa.
Tiếng động cơ làm đinh tai nhức óc có thể cho phép đoán được tốc độ không dưới
200 cây số giờ. Sự gian ác “chợt đến bất ngờ” khiến tôi nhủ thầm: “ngử” này
chưa thấy quan tài chưa đổ lệ, may ra có gặp tai nạn thì họ mới mở mắt ra!
Nghĩ vậy nhưng tôi vẫn thầm mong rằng “điều ước” gian ác của tôi đừng xảy ra.
Vậy mà, chỉ vài phút sau đó, nghĩa là sau khi quái kiệt đã lượn qua con đường
ngắn trước mặt tôi đâu chừng 4,5 lần, tôi nghe như có một tiếng nổ chát chúa và
mọi thứ đều trở về với thinh lặng. Trong đêm tối, tôi cố gắng “thiền niệm” và tập
trung sự chú ý vào mấy cái đầu cần câu của tôi. Nhưng chỉ mươi mười phút sau
đó, từ các ngã đường, xe cảnh sát, xe cứu thương với tiếng còi hụ đi kèm, kéo
nhau đến. Có cả xe chữa lửa nữa. Chuyện lớn rồi! Nghĩ như thế cho nên tôi mới
thu cần câu lại và chạy đến “hiện trường” để xem điều gì đã xảy ra. Trên khúc
đường chỉ cách chỗ tôi đứng câu khoảng 200 thước, tôi thấy có một chiếc mô tô
loại “tầm cỡ’ nằm chơ vơ, chiếc bánh trước bay đâu mất. Liếc vào một góc tường
của một căn nhà bên cạnh, tôi thấy một tấm “ra” trắng phủ lên một xác người. Những
người có mặt trước tôi cho biết nạn nhân đã chết vì chiếc xe mô tô của anh đã
đâm mạnh vào một gốc cây bên vệ đường.
Hình ảnh rùng rợn mà lâu lắm tôi mới thấy tại Úc Đại Lợi này, đã đưa tôi trở
về Việt Nam vào khoảng thập niên 1960. Đó là thời kỳ mà cùng với việc Hoa Kỳ đổ
quân vào Việt Nam, các loại xe gắn máy của Nhựt Bản cũng được ào ạt nhập vào. Từ
đó cũng phát sinh hiện tượng “quái kiệt” đua xe hai bánh. Xa lộ Biên Hòa mới được
khánh thành đã trở thành trường đua lý tưởng cho dân chơi xe. Xe Mỹ từ các căn
cứ Biên Hòa, Long Thành tràn ngập trên xa lộ trở thành những chướng ngại lý thú
cho các cuộc đua. Báo chí lúc bấy giờ gọi những người lấy tốc độ để giỡn mặt với
tử thần là “anh hùng xa lộ”. Trong chiến tranh, anh hùng ngoài trận mạc đã nhiều,
mà “anh hùng xa lộ” được phong thần không phải là ít.
Tôi không rõ người cỡi xe mô tô trên
con đường gần bãi câu của tôi đã “ngộ nạn” vì tai nạn giao thông hay vì muốn trở
thành “anh hùng” của tốc độ mà phải từ giã cõi đời một cách tức tưởi như thế.
Nhưng ý niệm “anh hùng” cứ quay cuồng trong đầu tôi.
Thời buổi thông tin toàn cầu xem ra cũng là thời của “anh hùng”. Số người
thích chơi nổi ngày càng nhiều. Đâu chỉ có ở cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
ra ngõ mới gặp “anh hùng”. Bây giờ đi
đâu cũng thấy “anh hùng” cả. Tôi đặc biệt dành danh xưng này cho mấy ông chuyên
chặt đầu người của tổ chức khủng bố “Quốc gia Hồi giáo”. Hầu như không có ngày
nào thế giới không nhắc đến tổ chức khủng bố này và những hình ảnh dã man mà óc
tưởng tượng của con người thời đại không dám nghĩ tới được tổ chức này tung lên
trên các trang mạng xã hội. Điều đáng suy nghĩ là các cuộc oanh tạc của Hoa Kỳ,
dù có thể loại khỏi vòng chiến một số hung thần, xem ra cũng không chận đứng được
làn sóng giới trẻ Hồi giáo tại các nước Tây Phương đua nhau gia nhập vào tổ chức
“Quốc gia Hồi giáo”. Theo những số liệu mới nhứt, có trên 3000 đạo quân thánh
chiến Tây Phương, hầu hết xuất phát từ những nước như Anh Quốc, Úc Đại Lợi,
Pháp, Đức và Hoa Kỳ, đã chiến đấu tại Syria và Iraq.
Các nhà phân tách và các chính trị gia đã phải bù đầu bứt tóc để tìm hiểu
lý do tại sao nhiều thanh niên Hồi giáo, dù được sinh ra, lớn lên và thụ hưởng
nền giáo dục Tây Phương, lại gia nhập tổ chức khủng bố này và sẵn sàng chết vì
một lý tưởng và ý thức hệ cực đoan như thế. Kỳ thị, thành kiến, thù ghét văn
hóa Tây Phương và ảnh hưởng của các giáo sĩ cực đoan... đó là những lý do thường
được đưa ra để giải thích tại sao nhiều thanh niên Hồi giáo Tây Phương gia nhập
vào tổ chức “Quốc gia Hồi giáo”.
Nhưng trên báo mạng
“Psychologytoday”, giáo sư Mark van Vugt, chuyên giảng dạy về tâm lý xã
hội tại trường đại học VU, Amsterdam, Hòa Lan, viết rằng bên cạnh những yếu tố
nói trên, còn có một nguyên nhân sâu xa hơn. Theo ông, nhiều thanh niên Hồi giáo Tây Phương xem cuộc
chiến đấu cho tổ chức “Quốc gia Hồi giáo” như một cuộc mạo hiểm lý thú. Đối với
nhiều người, đây là con đường để họ khẳng định địa vị và chỗ đứng của họ trong
xã hội!
Giáo sư Vugt trích dẫn kinh nghiệm của triết gia Mỹ Jesse Glenn Gray, người
đã từng chiến đấu trong thời Đệ nhị Thế chiến. Trong cuốn sách có tựa đề “The
Warriors” (các chiến binh), triết gia Gray cho biết nhiều cựu chiến binh đã tỏ
ra thành thật khi nhìn nhận rằng kinh nghiệm được chiến đấu bên cạnh các bạn đồng
ngũ là một “đỉnh cao” trong cuộc sống của họ.
Theo giáo sư Vugt, rất có thể đây cũng là điều mà các thanh niên Hồi giáo
Tây phương muốn tìm kiếm khi tham gia chiến đấu trong tổ chức “Quốc gia Hồi
giáo”. Giáo sư Vugt cho rằng những thanh niên này xem cuộc chiến đấu như một cơ
hội để trở thành “anh hùng”. Con số 72 trinh nữ thường được nhắc đến thực ra chỉ
là một hình ảnh hay ẩn dụ nói lên phần thưởng được tuyên dương như một “anh
hùng” mà các thanh niên Hồi giáo bị đầu độc hằng mong chờ.
Càng bị xã hội đẩy ra bên lề hoặc càng tự giam mình trong tổ kén cô độc của
mình, càng gặp thất bại trong cuộc sống và không có khả năng để hội nhập vào xã
hội...con người càng muốn đi tìm một lối thoát để vươn lên. Định luật bù trù mà
kể từ thời cha đẻ Phân Tâm Học Sigmund Freud (1856-1939) người ta luôn dựa vào
để giải thích về những động lực hành động của con người, có lẽ nên được áp dụng
vào trường hợp các thanh niên Hồi giáo bị tổ chức “Quốc gia Hồi giáo” đầu độc
và “cực đoan hóa”.
Có lẽ các chuyên gia tâm lý đã từng
nghiên cứu về tâm lý bệnh hoạn của những tay đồ tể thế giới. Riêng với ông “Bác
Hồ” của Việt Nam, theo chân dung được giáo sư Trần Đức Thảo hay nhà báo Trần
Đĩnh phác họa, áp dụng luật bù trừ tâm lý để giải thích con đường tiến thân và
“cách mạng” của ông xem ra không phải là điều khiên cưỡng. Nếu đơn xin đề ngày
15 tháng 11 năm 1911 gởi lên tổng thống Pháp được chấp thuận và người thanh
niên Nguyễn Tất Thành được nhận vào học nội trú tại Trường Thuộc Địa, thì làm
gì có chuyện “Anh Ba” xuống tàu “tìm đường cứu nước” để rồi sau đó bị chủ nghĩa cộng sản
đầu độc và biến thành một thứ công cụ cho tổ chức cộng sản quốc tế. Có lẽ vì
khát vọng rất khiêm tốn được trở thành một quan chức phục vụ cho chế độ thuộc địa
không thành mà người thanh niên Nguyễn Tất Thành, do bất mãn, đã quay ra đeo đuổi
giấc mộng làm một “anh hùng” hay đúng hơn một “gian hùng” như triết gia Trần Đức
Thảo ghi nhận, không từ bỏ bất cứ một thủ đoạn nào miễn là đạt được tham vọng
quyền lực của mình.
Nói chung, thế giới cộng sản thiết yếu chỉ là một thế giới của quyền lực,
tranh giành và đấu đá nhau, chớ chẳng phải vì lý tưởng, vì dân vì nước hay để xây
dựng thiên đàng trần gian nào cả. Anh cộng sản nào, nếu không đi tìm kiếm “vinh
thân phì gia” thì cũng đều để lộ chân tướng của tham vọng quyền lực và tham vọng
thành “anh hùng” cả.
Mới đây, lá thư của bà Bảy Vân, vợ lẽ của ông Lê Duẫn, gởi lên Bộ Chính trị
Trung ương để yêu cầu xét lại địa vị số 2 của “đại tướng anh hùng” Võ Nguyên
Giáp, đã cho thấy rõ bản chất của con người cộng sản. Mục đích lộ liễu của người
đàn bà này là hạ bệ người được xưng tụng là “người anh hùng Điện Biên Phủ” để
đưa ông Lê Duẩn, chồng bà lên thay thế. Sinh thời, như nhà báo Trần Đĩnh đã ghi
lại trong hồi ký “Đèn Cù”, Lê Duẩn cũng ganh tỵ cả với Hồ Chí Minh. Vào thập
niên 1960, khi nổ ra vụ án “Chống Đảng Xét lại”, Lê Duẩn đã hoàn toàn ngả theo
Mao Trạch Đông không ngoài mục đích hạ bệ Hồ Chí Minh. Tác giả Trần Đĩnh nhận định:
“Duẩn có suy tôn Mao thay Lê-nin, thì Mao
mới suy tôn Duẩn thay Hồ Chí Minh” (Đèn Cù trg 198). Máu của người Việt Nam
đã chảy thành sông cũng vì khát vọng điên cuồng của những con người muốn làm
“anh hùng” như thế!
Trong lời nhắn gởi với các cộng đồng Hồi giáo trên khắp thế giới, giáo sư
Vugt đã khuyên họ “hãy đứng lên và tuyên bố rõ ràng rằng làm một “thánh chiến
quân” tuyệt đối không phải là anh hùng mà là một kẻ chiến bại, bởi vì bạn bị cộng
đồng địa phương, các đền thờ, các giáo sĩ và phụ nữ từ bỏ khi bạn đi chiến đấu
như thế. Những người thanh niên Hồi giáo ở nhà nên được xem là những anh hùng
đích thực”.
Ca tụng những người “ở nhà” như những
anh hùng đích thực, có lẽ giáo sư Vugt muốn đề cao quan niệm thường bị lãng
quên về anh hùng. Nói đến “anh hùng”, người ta thường chỉ nghĩ đến những hành động
phi thường, những thành tựu hiển hách, trong khi anh hùng đích thực thiết yếu
phải là người luôn biết quên mình vì người khác, luôn âm thầm chiến đấu chống lại
bản ngã ích kỷ và những cuồng vọng của mình.
Có lẽ tác giả Trần Đĩnh cũng đã có những suy nghĩ như thế khi ông viết về
chủ nhân và cái bóng của hắn: “Cặp nhân vật
này cứ đêm đến lại thì thầm lên sổ thu chi được mất với nhau. Chủ nhân mất nhiều,
rất nhiều, tóm lại toàn bộ bản ngã hắn...Nhưng bù lại cái bóng của hắn lại thu
về rất nhiều. Địa vị, quyền lợi, tên tuổi. Tóm lại vớ bẩm. Và rồi cái bóng cứ
thế lớn ra, trùm lên chủ nhân, hóa thành hào quang lý tưởng dắt dẫn chủ nhân và
chủ nhân không còn” (trg 226).
Những suy nghĩ trên đây của tác giả Trần Đĩnh giúp tôi xác tín rằng khi cái
bóng của “địa vị, quyền lợi, tên tuổi” phủ lên bản ngã, thì con người nếu còn tồn
tại, cũng chỉ tồn tại như một thứ “anh hùng rơm”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét