Thứ Hai, 6 tháng 10, 2014

Giấc Mơ Chưa Tròn



                                                                                  Chu Thập 13/10/10

Nếu cố mục sư Martin Luther King, người tranh đấu cho quyền bình đẳng của người da đen tại Hoa kỳ hồi thập niên 1960 còn sống, hẳn ông phải thấy mãn nguyện. Không những giấc mơ được thấy con cái của những người nô lệ da đen được ngồi trên cùng một bàn ăn với con cái các chủ nhân da trắng đã thành sự thật, mà ngay cả một người da đen ngày nay lại đang chiếm giữ địa vị quyền lực cao nhứt tại Hoa kỳ.
“Tôi có một giấc mơ”. Tôi đã không biết bao nhiêu lần hát lên bài ca ấy. Nhưng dường như giấc mơ nào của tôi cũng đều dang dở.
Thuở còn để chỏm, tôi đã mơ được trở thành một “thằng” trong đội bóng tròn quốc gia như “thằng Rạng”, “thằng Ngôn”, “thằng Đức”. Cái đội bóng còn xử dụng trái bưởi hay cuốn rạ làm quả banh như chúng tôi vẫn luôn tự phong cho mỗi đứa một cái tên của những “thằng” cầu thủ nổi tiếng ấy.
Trong cái lớp học của ngôi trường làng lúc nào cũng ồn như cái chợ, ngay cả trước khi được đọc truyện của nhà văn Duyên Anh, tôi cũng đã từng mơ được “làm người Quang Trung”. Trong các trận hỗn chiến giữa lũ trẻ con trong làng, tôi chỉ mơ được điều binh khiển tướng như vị anh hùng dân tộc này.
Thế rồi, bước vào Trung học, những giấc mơ của tôi gần gũi với hiện thực hơn. Ở đầu thập niên 60, người hùng của tôi không còn nằm trong những trang sử của dân tộc nữa, mà là cái ông tổng thống ở một nước vẫn thường được mệnh danh là “giấc mơ Hoa Kỳ”. Thật vậy, tuy không được hân hạnh bắt tay ông như người học sinh trung học Bill Clinton, nhưng cứ thấy ông xuất hiện trước công chúng với khuôn mặt đẹp trai, trẻ trung và nhứt là với giọng nói đầy thuyết phục và thu hút, tôi cũng thấy bị cuốn hút như thể đang mơ. Vào thời ấy, có người thanh niên nào mà không nhớ câu nói để đời của ông: “Đừng hỏi đất nước phải làm gì cho bạn, mà hãy tự hỏi bạn phải làm gì cho đất nước.”  Quả thật, tôi đã có một thời mơ được “làm người tổng thống John Kennedy”.
Lên bậc đại học, giấc mơ được chinh phục người khác bằng tài đức và nhứt là sức thuyết phục của mình, được tôi xây dựng và thêu dệt bằng rất nhiều bí quyết mà tôi thu thập được trong tủ sách “học làm người”. Tựu trung, làm thế nào để dùng ba tấc lưỡi mà thu phục nhân tâm: đó là nỗi “trăn trở” của thời thanh niên của tôi. Tôi đặc biệt nghiền ngẫm cuốn “Thuật Hùng biện” của tác giả Hoàng Xuân Việt, xuất bản tại Sài gòn năm 1963. Trong lời tựa của cuốn sách, tác giả cảnh cáo : “Không phải đọc xong quyển này rồi nghiễm nhiên bạn thành những Tô Tần, Bossuet hay Mirabeau. Nghệ thuật nào cũng hiểu ngầm mầm mống thiên tài. Để trở thành những ngọn lưỡi lỗi lạc như vậy, trước hết phải thuộc dòng máu của Demosthène, Trương Nghi, Nã Phá Luân. Song môn học nào mà chịu khó học theo phương pháp tốt thu thập kết quả khả quan”.
Trương Nghi thì tôi không rành lắm. Hoàng đế Nã Phá Luân của Pháp thì tôi có say mê thật. Nhưng cái ông Demosthène ở tận bên Hy lạp xa lắt xa lơ và sống trước công nguyên đến cả 3 thế kỷ thì tôi lại thuộc lòng tiểu sử. Đúng như tác giả Hoàng Xuân Việt nói, ông “vua hùng biện” này là một thiên tài. Chỉ mới 20 tuổi, ông đã thi thố khả năng ăn nói của mình. Mồ côi cha sớm, lại bị người giám hộ tranh giành phần gia tài, cho nên Demosthene đã đâm đơn kiện. Vào cái thời chưa có luật sư bào chữa, người thanh niên 20 tuổi đã tự biện hộ và thắng kiện. Thừa thắng xông lên, thấy mình có khả năng nói trước công chúng, Demosthene đã nhảy vào diễn đàn công cộng rất thịnh hành tại Athenes vào thời đó. Nhưng vì chưa biết rõ tài của ông, cho nên dân chúng xem ông như “một đứa con nít” ăn nói phách lối. Dù bị đả đảo và tẩy chay, người thanh niên vẫn không thất vọng. Tự xét thấy mình ăn nói chưa hoạt bát, tính khí còn hào thắng lại có tật nói ngọng, cho nên Demosthene quyết định rút lui khỏi đời sống công cộng và tìm nơi cô tịch để luyện khẩu tài. Truyền thuyết kể lại rằng mỗi ngày ông ra bờ biển lấy sỏi ngậm vào miệng và tập phát âm cho rõ ràng hơn. Thấy mình không có một giọng nói hùng mạnh, ông la hét trước sóng gió cho đến khi hai buồng phổi được căng ra. Biết hơi thở của mình không được dài, ông tập nói liên tục khi leo lên các ngọn đồi. Chỉ khi nào nắm được thuật hùng biện, Demosthene mới xuống núi và nhập cuộc. Không lạ gì khi Demosthene xuất hiện lại trên diễn đàn công cộng, ông đã được mọi người thời đó xem như hiện thân của “thần hùng biện”.
Tôi đã một thời mê mệt thần tượng này. Tôi đã cố gắng luyện tập để trở thành một nhà hùng biện. Nhưng cuộc đời đưa đẩy, giấc mơ của tôi vẫn không bao giờ thành sự thật. Một phần vì tôi biết mình không thuộc dòng máu của Demosthene. Nhưng lý do chính là vì tôi học được từ trường đời rằng nghệ thuật hùng biện đích thực là cả cuộc sống chứ không phải chỉ là những lời nói hoa mỹ, hùng hồn và nhứt là lừa mị, dối trá.
Tạm gác giấc mơ thời trẻ, tôi bước vào thực tế khi phải chọn lựa nghề nghiệp cho tương lai. Tôi luôn tin là nghề nghiệp nào cũng có những sướng khổ của nó. Bỏ qua niềm yêu thích và năng khiếu của mỗi người, có những nghề nghiệp thích hợp với cá tính của người này mà tuyệt nhiên không thể nào thích hợp với người khác. Tôi có thể thích nghi với mọi công việc, không phân biệt lao động trí thức hay lao động chân tay, cổ xanh hay cổ trắng, lương cao hay lương thấp...Nhưng tự biết khả năng của mình cho nên tôi không thể làm công việc mà tôi biết tôi không thể nào theo đuổi được:  đó là cái nghề phải dùng “nước miếng” để thuyết phục người khác.
Nói như thế không có nghĩa là tôi “khi dể” những nghề nghiệp đó, trái lại là khác. Chỉ vì tánh tôi không làm sao mở miệng “dụ dỗ” ai được nếu như tôi không xác tín cái gì mình đang nói. Nhưng đâu phải chuyện gì người ta cũng có đủ thì giờ để điều tra, suy nghĩ cho cặn kẽ để...xác tín. Nhứt là nếu đợi cho đến khi tôi có đủ xác tín rồi thì chắc là cũng chẳng còn ai có kiên nhẫn mà chờ nghe tôi “dụ dỗ” nữa.
Vì vậy, mỗi khi nhìn một ứng viên chính trị trổ tài chinh phục cử tri là tôi thấy phục lăn phục lóc. Lời lẽ hùng hồn chém đá chặt sắt, cử chỉ mạnh mẽ, mắt ngời sáng nhìn thẳng vào cử tọa đông đảo. Người ứng viên nào cũng cố gắng chuyên chở thật nhiều hứa hẹn cho một tương lai tưởng như cầm chắc trong tay. Bầu khí dù có mở máy lạnh tối đa cũng không sao giảm được khí thế bừng bừng của ứng viên lan sang cử tọa. Nếu người ta được phép bỏ phiếu ngay sau mỗi bài diễn văn vận động bầu cử thì chắc là ứng viên nào cũng đạt 99.99% số phiếu bầu như chuyện thường xảy ra mỗi khi người Việt trong nước phải đi bầu quốc hội. Tôi đã nhìn thấy cái “khí thế” ấy trong cuộc vận động bầu cử của tổng thống Barack Obama. Nói như kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa, cứ nghe như ông rao “ai mua trăng tôi bán trăng cho”, vậy mà ai cũng há mồm để uống từng lời từng chữ của ông. Tôi thầm phục tài hùng biện của vị tổng thống da đen này. Tôi phục sát đất những người như ông là phải bởi vì, như hầu hết các ông chồng trên trần gian này, chỉ có một bà vợ trong nhà mà tôi còn phải trầy vi tróc vẩy may ra mới thuyết phục được một chuyện trong trăm ngàn chuyện thì so với họ, tôi không bao giờ có thể trở thành đệ tử được.
Tôi không thích “làm chính trị”. Dĩ nhiên, sống trong một quốc gia, có việc làm hay sinh hoạt nào của một người công dân mà không mang tính chính trị. Đừng nói đến chuyện đi bỏ phiếu để chọn mặt gởi vàng, nội chuyện đi mua sắm phải đóng thuế GST cũng đã là một hành động chính trị rồi. Không đi bỏ phiếu cũng là một hành động chính trị không kém.  Nói đến “làm chính trị” tôi chỉ muốn ám chỉ đến những hoạt động của các chính trị gia, các đảng phái, các nhà lãnh đạo quốc gia. Làm chính trị mà không dùng ba tấc lưỡi để khuyến dụ, thuyết phục, lôi kéo người khác thì hẳn không phải là người có “thiên hướng” chính trị rồi. Thông thường một chính trị gia được thẩm định dựa vào tài khéo nói của người ấy. Về điểm này có lẽ ít có ai qua mặt được cựu tổng thống Bill Clinton. Ông là một luật sư tài ba. Nhưng nói theo tiếng Việt bình dân, dễ hiểu, thì ông là một “thày cãi” ngoại hạng. Đã là “thày cãi” cho nên chuyện gì ông cũng cãi được. Khi được hỏi: ông có “chơi” ma túy không, ông tỉnh bơ trả lời rằng ông chỉ “thử” ở ngoài chứ không hít vào cơ thể. Mà nếu chỉ thử ở ngoài thì chưa phải là “hút hít”. Cũng vậy, khi nổ ra vụ tai tiếng về chuyện tằng tịu với cô tập sự viên Monica Lewinski, ông “thày cãi” này lại định nghĩa “lòng vòng” về chữ “sex” (làm tình) để chối phăng việc ông có quan hệ tình dục với cô.
Khi theo dõi vụ này, tôi thấy thương hại ông Clinton hơn là trách móc. Là một chính trị gia được cả thế giới tán dương về tài trí, ông quả là một nhà “hùng biện” có thể thay trắng đổi đen để đảo ngược thế cờ, biến bại thành thắng. Nhưng với tôi, sự hùng biện đích thực vẫn phải là khả năng và cam kết sống chết cho sự thật. Bởi vì, trong khi nửa cái hố vẫn là một cái hố, nhưng nửa sự thật không phải là sự thật.
Biết khó uốn lưỡi của mình một cách dễ dàng cho nên tôi luôn chọn cho mình công việc càng ít phải tiếp xúc với người khác càng tốt. Cũng may, tôi thường được làm những công việc không cần phải diễn tả sao cho khéo léo để làm vui lòng người khác. Và cũng chẳng cần phải “vẽ rắn thêm chân”, chỉ cần tôn trọng sự thật, có sao ra vậy. Chính vì vậy mà giấc mơ trở thành một nhà hùng biện của tôi đã không bao giờ thành sự thật. Thần tượng ngày nay của tôi không còn là những Tô Tần, Demosthene, Nã Phá Luân hay Bill Clinton, Barack Obama… nữa, mà là những con người là hiện thân của sự thật.
Bởi “hành động vang dội hơn lời nói” (Action speaks louder than word) cho nên tôi tâm phục khẩu phục những người “nói” bằng hành động và ngay cả bằng sự “thinh lặng” hơn những người chỉ nói suông. Trước tòa án, khi tổng trấn Philatô hỏi Chúa Giêsu “Sự thật là gì?” Ngài thinh lặng. Giải thích về “sự thật” như thế nào được cho một con người có chủ trương, như triết gia Pháp Blaise Pascal đã nói “sự thật bên này dãy núi Pyrénées, lại là sai lầm ở phía bên kia”?  Với những con người xem quyền lực, của cải, danh vọng là “sự thật”, Chúa Giêsu chỉ có thể “nói” bằng sự thinh lặng, nghĩa là bằng thái độ sẵn sàng chấp nhận bản án bất công để vạch trần tội ác mà dối trá là cơ bản.
Tôi cũng có ý tưởng trên đây khi nhìn tấm hình linh mục Nguyễn văn Lý bị “bịt miệng” trong phiên tòa kéo dài không đầy hai tiếng đồng hồ tại Huế hồi năm 2007. “Bị bịt miệng để nên lời”, vị linh mục này không “nói” được, nhưng hình ảnh “bị bịt miệng” của ông được truyền đi khắp thế giới đã là một lời tố cáo hùng hồn nhứt về những bất công của chế độ cộng sản tại Việt nam.
“Hùng hồn” hơn cả cái miệng bị bịt của linh mục Lý hẳn phải là hình ảnh của một người thanh niên vô danh đứng chận đầu đoàn xe tăng của quân đội nhân dân Trung Quốc trong cuộc biểu tình đòi dân chủ tại quảng trường Thiên An Môn dạo tháng 6 năm 1989. Được quảng bá rộng rãi trên khắp thế giới, hình ảnh này đã trở thành bản cáo trạng hùng hồn nhứt về tình trạng nhân quyền tồi tệ của chính quyền cộng sản Trung Quốc.
Tôi cũng nghĩ như thế về nhà văn Liu Xiaobo của Trung Quốc, người vừa được trao tặng giải Nobel hòa bình năm nay, 2010. Trong nơi tù đày, ông bị cùm chân, trói tay và bịt miệng, nhưng trước thế giới, chắc chắn ông có một tiếng nói “hùng mạnh” hơn cả cái chế độ chỉ biết nói bằng dùi cui, báng súng và hàng rào kẽm gai.
Nói đến tính thuyết phục và sức mạnh của cuộc sống, làm sao không nghĩ đến Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhà lãnh đạo tinh thần của Tây Tạng. Người ta thích nghe vị Phật sống này “nói” không chỉ vì Ngài nói bằng lời nói cho bằng cuộc sống đơn sơ, cử chỉ hồn nhiên, gần gũi nhưng siêu thoát của Ngài.
Xin được chọn những người như thế làm bậc thày của hùng biện, bởi vì nói như văn hào Anh Shakespeare: “Hành động là hùng biện. Mắt của người ngu dốt thông minh hơn tai của họ.”








Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét