Chu Thập
26/9/14
Ba lần dọn nhà bằng một lần cháy nhà. Hẳn một người bạn của
tôi đang nhận ra “chân lý” ấy. Không gì tất bật bằng dọn nhà. Mấy lần đến thăm
và tiện dịp “hôi của”, tôi thấy cả gia đình người bạn tôi đều bận bịu và có lúc
ngẩn ngơ vì bị dằng co giữa những thứ phải mang theo và những thứ phải bỏ lại.
Trong những thứ không thể mang theo, gia đình người bạn của tôi tiếc rẻ nhứt là
cây trái và hoa quả. Trồng xuống đất bất cứ một cây cỏ nào là đặt vào đó những
niềm hy vọng của mình. Do đó, không gì buồn cho bằng phải từ giã hay vứt bỏ một
niềm hy vọng.
Đọc được ý nghĩ đó của người bạn cho nên tôi cũng cố gắng
tha về nhà bất cứ cây trái hay hoa quả nào còn cứu vãn được. Trong những cây ăn
trái, tôi đặc biệt chú ý đến một cây “xuân đào” (Nectarine) vừa mới ra hoa. Đứt
rễ vì bị bứng đi, vậy mà chỉ vài ngày sau khi được rước về đất mới, cây “xuân
đào” của người bạn tôi đã xanh lại, những nụ hoa mới bắt đầu nhú ra. Niềm hy vọng
đã từng được người bạn tôi nâng niu nay chuyển sang tôi. Mỗi lần nhìn ngắm cây
“xuân đào” rực rỡ vẫn còn lạc lõng như một cô công chúa cao sang bối rối đứng
chung với những cây cối đủ mọi chủng loại khác trên cái mảnh vườn mà tôi thường
gọi là “quê hương bỏ túi” của tôi, tôi nghe như vọng lại ca khúc nổi tiếng một
thời: “Hy vọng đã vươn lên trong màn đêm”.
“Màn đêm” thì thời nào cũng có. “Màn đêm” khủng khiếp nhứt
đối với thế giới trong thời gian gần đây có lẽ là cuộc khủng bố bằng máy bay
thiêu rụi tòa nhà Tháp Đôi ở New York, Hoa Kỳ ngày 11 tháng 9 năm 2001. Vậy mà
giữa đống tro tàn ấy, sự sống và niềm hy vọng vẫn tiếp tục vươn lên: một cây lê
(pear), sau một lần bị chôn vùi trong tro bụi, vẫn sống cho tới ngày nay để trở
thành biểu tượng của một niềm hy vọng mà không một sức mạnh nào của Sự Dữ có thể
dập tắt được.

Cây lê “nạn nhân” này đã được moi lên và gởi đến Vườn ương
Parks tại Bronx. Ông Richie Cabo, người quản lý của Vườn ương này, cho biết khi
nhìn thấy cây lê bị “chém đầu”, ông không nghĩ là có thể cứu vãn được nó. Dù vậy,
ông cũng cố gắng làm một cuộc giải phẫu để cắt bỏ những cành chết trên thân
cây, tỉa bớt rễ của nó và đặt nó vào một chậu đất lớn với đầy đủ thức ăn cần
thiết. Được đặt cho một tên mới là “Kẻ sống sót” (Survivor), cây lê đã từ từ hồi
sức và bén rễ lại.
Nhưng mùa xuân năm 2010,
một trận bão với sức gió 160 cây số giờ đã thổi vào vùng New York. “Kẻ sống
sót” lại một phen điêu đứng nữa. Ông Richie đã cùng với ba người con chứng kiến
cái cảnh cây lê bị bật rễ ra khỏi chậu đất. Nhân viên của Vườn ương đã cố gắng
đưa “nạn nhân” vào vị trí bình thường. Đây là một công tác “cứu trợ” đầy cam
go, bởi vì “nạn nhân” lúc này đã cao đến 6 thước. Vậy mà chỉ vài tuần lễ sau,
cây lê đã một lần nữa hoàn toàn hồi phục.
Biết được lai lịch và sức sống mãnh liệt của cây lê sau
bao phen sóng gió và thử thách, ông Ron Vega, giám đốc chương trình thiết kế
Đài Tưởng niệm cuộc khủng bố 11 tháng 9, đã quyết định đưa “Kẻ sống sót” vào
hàng ngũ những di tích cần được tưởng nhớ. Tháng 12 năm 2010, ông đã cho trồng
cây lê dưới chân tòa Tháp Nam.
Khi đứng giám sát công trình, ông Ron Vega đã ra lệnh cho
các nhân viên phải trồng cây lê như thế
nào để công chúng có thể nhận ra những “thương tích” mà nó đã gánh chịu trong
cuộc khủng bố. Một số người không hài lòng về việc trồng lại cây lê dưới chân
tòa Tháp Nam. Họ cho rằng sự hiện diện của nó sẽ làm mất đi sự hài hòa của cảnh
trí, bởi vì nó là một loại cây hoàn toàn khác biệt với những cây cối xung quanh.
Thật vậy, nó đúng là một cây chẳng giống chút nào với những cây đứng gần nó.
Nhân dịp kỷ niệm 10 năm biến cố 11 tháng 9, khi công viên tưởng niệm được khai
mạc, những người sống sót và gia đình của họ đã đến gắn những tua vải màu xanh
lên cành của “Kẻ sống sót”.
.jpg)
Hình ảnh này có thể gợi lại một “kẻ sống sót” khác tại Nhựt
Bản. Báo chí nước này tường thuật rằng liền sau khi xảy ra cơn đại sóng thần và
tai họa tại lò nguyên tử Fukushima năm 2004, một toán phóng viên truyền hình đã
đến nơi để thực hiện một cuộc phóng sự. Tại đây, họ đã phỏng vấn một người đàn
ông vừa mới mất tất cả mọi sự: không chỉ
nhà cửa, tài sản, mà còn cả vợ con. Người phóng viên hỏi liệu ông có còn chút
hy vọng nào không. Người đàn ông chỉ tay về hướng một cây anh đào vừa bắt đầu
đơm bông và nói: “Các ông hãy nhìn kia. Nó đang mang lại niềm hy vọng cho tôi” (x.
Reader’s Digest 9/2014).
Thế giới vừa mới tưởng niệm năm thứ 13 cuộc Khủng bố 11
tháng 9. Lãnh tụ của tổ chức khủng bố Taliban, Osama Bin Laden, không còn nữa,
nhưng “linh hồn” của tổ chức này xem ra vẫn “bất diệt”. Cách đây 13 năm, khủng
bố chỉ nhắm vào một số cao ốc, các chuyến bay, một số lãnh tụ thế giới hoặc một
nơi có đông người tập trung. Nay với phong trào “Quốc gia Hồi giáo” (IS), mục
tiêu của khủng bố là bất cứ một người Tây phương nào và cuộc hành quyết được chỉ
thị phải được thực hiện một cách công khai giữa thanh thiên bạch nhựt và được
thu hình. Thế giới xem ra không còn chỗ nào được gọi là an toàn nữa. Ngay cả một nơi “miệt dưới” xa xôi như Úc Đại Lợi hiện
cũng đang bị đặt vào tình trạng báo động cao. Rồi đây, vì an ninh và an toàn
cho từng người dân, có lẽ chính phủ Úc sẽ phải ban hành những luật lệ hạn chế tự
do cá nhân. Trong những ngày “đen tối” sắp đến, tôi chỉ còn biết lập lại lời của
Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhà lãnh đạo tinh thần lưu vong của Tây Tạng: “Tôi
tìm thấy hy vọng trong những ngày đen tối nhứt và tôi tập trung sự chú ý vào những
ngày sáng sủa nhứt”. Nếu tình thế hiện nay còn cho phép tôi hy vọng thì
niềm hy vọng đó phát xuất từ sự kiện thế giới ngày càng nhận thức được bộ mặt của
tội ác và sự Dữ. Tôi tin rằng nếu trên thế giới này ngày càng có nhiều người nhận
ra được bộ mặt tàn bạo, dã man, độc ác của tổ chức khủng bố “Quốc gia Hồi giáo”
thì chắc chắn nó sẽ không còn đất sống. Chỉ có Ánh sáng của lương tâm mới chiếu
soi vào bóng tối để phơi bày tội ác và như vậy mới có thể mang lại niềm hy vọng
cho con người. Tôi cũng nghĩ như thế về tội ác của chế độ cộng sản Việt Nam,
cách riêng trong thời kỳ Cải cách Ruộng đất ở Miền Bắc.
Tôi đang đọc hồi ký “Đèn Cù” của Trần Đĩnh, tác phẩm hiện
đang được người Việt hải ngoại bàn tán xôn xao. Người chống, kẻ khen. Riêng tôi
đọc cuốn sách này với niềm cảm thông và hy vọng. Đọc tiểu sử của ông Trần Đĩnh,
ai cũng biết rằng ông là người đã từng được chế độ ưu đãi trong suốt 70 năm
qua. Thật là hợp lý để nêu lên câu hỏi: tại sao ông đã có thể cúc cung phục vụ
một chế độ tàn bạo vô nhân đạo như thế và đã giữ im lặng lâu như thế? Có lẽ đây
cũng là câu hỏi mà người ta cũng có thể đặt ra cho hầu hết các văn nghệ sĩ và
các nhà trí thức Miền Bắc. Tôi thông cảm với ông cũng như với rất nhiều nhà trí
thức đã và đang sống dưới chế độ cộng sản. Có lẽ chỉ có nhà văn Nguyễn Tuân,
trong một cơn say lúy túy, mới có thể khóc sướt mướt để tự thú với bạn bè: “Nhờ
biết sợ mà tao mới có thể sống đến ngày hôm nay”. Sự sợ hãi là kẻ thù đáng sợ
nhứt trong một chế độ xây dựng trên khủng bố. Nhà văn Nguyễn Tuân đã nói lên được
tâm sự thầm kín mà rất nhiều nhà trí thức khác vẫn chôn chặt trong tâm hồn.
Tôi thông cảm và tha thứ cho ông Trần Đĩnh. Tôi cũng biết
ơn ông, bởi vì ít nhứt ở cuối đời, ông đã dám nói lên sự thật. Cám ơn ông đã thắp
thêm một chút ánh sáng nữa để soi sáng vào bóng tối tội ác của điều thường được
gọi là cuộc Cải cách Ruộng đất long trời lở đất do chính ông Hồ Chí Minh chủ xướng.
Có lẽ phải nhờ một chút ánh sáng được ông Trần Đĩnh thắp lên chúng ta mới thấy
thêm bộ mặt độc ác của chế độ cộng sản, nhứt là của ông Hồ Chí Minh qua vụ hành
quyết bà Nguyễn Thị Năm (Cát Hạnh Long) và vùi dập một cách dã man tử thi của
bà.
Không biết có phải do ngẫu nhiên xui khiến không mà cùng
lúc với hồi ký “Đèn Cù” của ông Trần Đĩnh được phổ biến rộng rãi ở hải ngoại
thì trong nước chế độ cộng sản Việt Nam lại cho tổ chức cuộc triễn lãm về Cải
cách Ruộng đất. Nhưng có lẽ do ánh sáng từ chiếc “Đèn Cù” của ông Trần Đĩnh quá
mạnh chăng mà chỉ sau 2 ngày khai trương, cuộc triển lãm đã tạm đình hoãn với
lý do như được “Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia” đưa
ra trong thông cáo: “Hiện nay, Phòng trưng bày chuyên đề “Cải cách ruộng đất
1946-1957” đang gặp sự cố điện, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia tạm thời đóng cửa để
sửa chữa, khắc phục”. “Sự cố điện” hay là sự thức tĩnh bất ngờ của người
dân kéo nhau đến bảo tàng viện không phải để cúi đầu lập lại hoạt cảnh của các
tòa án nhân dân trong các cuộc đấu tố, mà chính là để phơi bày, nguyền rủa tội
ác mà chế độ muốn tô son trét phấn thành “thành tích”?
Ánh sáng của sự thật ngày càng soi rọi vào bóng tối tội
ác của chế độ cộng sản Việt Nam. Người dân không còn sợ đến nỗi để bị bịt mắt
và sai khiến để bảo dối trá là sự thật, tội ác là ân sủng nữa. Đây là niềm hy vọng
của tôi về một tương lai tươi sáng hơn cho Việt Nam khi người dân dám bước đi
trong ánh sáng của sự thật để tố cáo tội ác.
Tôi tin tưởng như thế khi ngắm nhìn khu vườn nhỏ mà tôi vẫn
gọi một cách thân thương là “quê hương bỏ túi” của tôi. Mùa Xuân đã về. Nhiều
thứ đã ngủ vùi trong suốt mùa Đông nay thức dậy. Thiên nhiên quả là kiên nhẫn.
Có cả một mùa Hè nóng bức, một mùa Thu ảm đạm và một mùa Đông giá lạnh để chuẩn
bị cho sự thức dậy của mùa Xuân. Chiêm ngưỡng sự tuần hoàn ấy trong thiên
nhiên, tôi thấy được thúc đẩy để nuôi dưỡng niềm hy vọng xuyên qua những cố gắng,
những ý thức về nghĩa vụ bảo vệ quyền làm người, quyền sống của người khác, một
cách âm thầm, nhỏ bé trong từng ngày mà tôi được sống, được làm người với đầy đủ
giá trị của nó.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét