Thứ Tư, 8 tháng 10, 2014

Để Cho Tình Người Được Tiếp Tục Hiện Hữu


                                                                                    
                                                                                   Chu Thập
19.10.2010



Kể từ ngày Chúa Nhựt 17/10/10 vừa qua, hơn một tỷ người Công giáo trên khắp thế giới đã nhìn nhận người phụ nữ tên là Mary MacKillop như một vị thánh để xin cầu thay nguyện giúp và như một mẫu gương để noi theo. Riêng người dân Úc đại lợi, Công giáo hay không Công giáo, Kitô hữu hay ngoài Kitô giáo, có lẽ ai cũng đều hãnh diện vì đây là lần đầu tiên một người con dân của đất nước được một vinh dự lớn lao như thế. Sự kiện một phái đoàn chính phủ do bộ trưởng ngoại giao Kevin Rudd cầm đầu đã đến Roma để tham dự lễ tôn phong hiển thánh cho Mẹ Mary MacKillop cũng như các phương tiện truyền thông Úc dành nhiều trang và thời lượng cho lễ nghi này, cũng đủ để nói lên rằng vị thánh nữ này đã có một chỗ đứng quan trọng trong lịch sử Úc đại lợi và cuộc sống của người dân nước này.
Là một tín hữu Công giáo, tôi vẫn thường cầu nguyện với các vị thánh. Cũng như nhiều người dân Úc, tuy chưa một lần đến “khấn” bên mộ của thánh nữ Mary MacKillop ở North Sydney, tôi cũng đã nhiều lần chiêm ngắm chân dung của thánh nữ được trưng bày trong các ngôi giáo đường và cầu xin cho một số ý nguyện riêng của tôi. Tuy nhiên, với tôi, chờ đợi một phép lạ do lời bầu cử của vị thánh nữ này chẳng khác nào trúng số độc đắc. Do đó, điều quan trọng đối với tôi không phải là “cầu xin” mà là tìm hiểu sứ điệp mà vị thánh này muốn nhắn gởi cho tôi.
Không đơn giản hóa cuộc đời của vị thánh này, tôi nghĩ rằng mẫu gương mà thánh nữ muốn để lại cho hậu thế chính là phục vụ người nghèo và cương quyết phục vụ người nghèo đến độ nổi loạn và có lúc bị “vạ tuyệt thông”, nghĩa là bị trục xuất ra khỏi Giáo hội. Muốn hay không, Úc đại lợi không thể chối cãi được sự đóng góp lớn lao của thánh nữ Mary MacKillop trong sự thay đổi cái nhìn đối với người nghèo và công cuộc cải tạo xã hội vào thế kỷ 19.
Tôn trọng phẩm giá con người, nhứt là người nghèo, những kẻ kém may mắn, những người khuyết tật: tôi nghĩ đây là sứ điệp nền tảng nhứt mà tôi có thể lắng nghe được từ vị thánh tiên khởi của Úc đại lợi.
Ở thế kỷ 19, khi thánh nữ Mary MacKillop bắt đầu dấn thân phục vụ người nghèo, thì tại Anh quốc có một người đàn ông rất nổi tiếng. Ông nổi tiếng chỉ vì có một thân hình và một khuôn mặt dị dạng, xấu xí đến độ được tặng cho danh hiệu là “Người Voi”. Tên của ông là John Merrick. Theo câu chuyện được nhà nhân chủng học Ashkey Montagu thuật lại, thì John Merrick có thể là con người xấu xí nhứt trong lịch sử nhân loại. Năm lên 4 tuổi, bị mẹ bỏ rơi cho nên Merrick đã phải tự kiếm sống lây lất trong một nhà máy. Khi được 14 tuổi, tình cờ người thiếu niên được một chủ gánh xiếc khám phá. Khuôn mặt dị tướng của em đã thu hút vô số khán giả. Người chủ gánh xiếc phủ lên mình Merrick một tấm vải choàng và đặt ngồi trong một cái thùng lớn chẳng khác nào một con thú bị giam trong một cái chuồng.  Như một con thú được huấn luyện nhuần nhuyễn, “Người Voi” làm theo tất cả mọi mệnh lệnh của ông chủ gánh xiếc.
Một bác sĩ nổi tiếng làm việc tại bệnh viện London vào thời đó là ông Frederick Treves đã tình cờ nhìn thấy “Người Voi”. Ông mô tả như sau: một cục bướu thật lớn mọc ra giữa trán trông chẳng khác nào chiếc vòi của một con voi. Miệng của Merrick méo sang một bên. Cái mũi là cả một khối thịt nhầy nhụa. Cánh tay phải của Merrick dài gấp hai lần cánh tay của một người bình thường. Những ngón tay thì thô và hoàn toàn vô dụng. Nhìn chung, trên khắp thân thể của “Người Voi”, ở đâu người ta cũng nhìn thấy những sớ thịt thừa nhão và sần sù.
Merrick vừa tròn 21 tuổi khi được bác sĩ Treves khám phá. Vì cái miệng méo xệt sang một bên cho nên người thanh niên hầu như không có khả năng nói. Thoạt tiên, vị bác sĩ này xem “Người Voi” như một người đần độn và không bình thường. Dù vậy, sau khi chụp hình và ghi chép, ông vẫn trao cho anh một tấm danh thiếp có ghi địa chỉ của ông.
Trong hai năm liền, Merrick bị người chủ gánh xiếc mang về Bỉ, nhốt trong một chiếc cũi để cho khán giả nhìn xem như một con thú. Sau khi chính quyền Bỉ ra lệnh giải tán gánh xiếc, “Người Voi” được trả về Anh quốc. Trên chuyến tàu đi London, anh đã bị hành khách hành hạ bằng đủ mọi trò chơi độc ác. Tại nhà ga London, cảnh sát đã giải cứu anh. Nhưng anh không thể diễn tả được điều mình muốn nói. Trong người anh chỉ còn lại một tia hy vọng cuối cùng: đó là tấm danh thiếp của bác sĩ Treves mà anh đã cất giữ trong túi áo trong hai năm liền. Nhờ vậy mà “Người Voi” được mang đến bệnh viện nơi bác sĩ Treves đang làm việc. Tại đây, người ta giam anh vào một khu cách ly. Trong mấy ngày liền, “Người Voi” không được ai cho ăn uống. Viên bác sĩ liền sai cô y tá mang thức ăn đến cho anh. Nhưng khi vừa trông thấy hình dáng và khuôn mặt “khủng khiếp” của anh, cô đã la hét lên, đánh rơi chiếc khay thức ăn, rồi bỏ chạy. Nhưng Merrick không để lộ một phản ứng nào. Anh đã quá quen thuộc với những cách đối xử như thế của người đồng loại.
Bác sĩ Treves từ từ học được cách liên lạc với “Người Voi”. Ông ngạc nhiên vô cùng khi khám phá ra rằng Merrick không phải là một con người đần độn chút nào. Trái lại, anh là một người biết đọc, biết viết và rất ham đọc sách. Ngoài quyển Kinh Thánh, anh còn đọc những tác phẩm cổ điển trong văn chương Anh. Bác sĩ Treves không thể ngờ rằng một con người đã bị cướp đi tuổi thơ, bị đối xử như một con thú dữ, bị khai thác và suốt một đời chưa hề cảm nếm được thế nào là “vui thú”, bị hành hạ và tước đoạt mọi niềm hy vọng, vậy mà không những có thể sống còn, mà còn có được thái độ luôn nhẫn nhục và hòa nhã.
Sau khi đã có thể “nói chuyện” được với bác sĩ Treves, Merrick bày tỏ mong ước được vào ở trong một trung tâm dành cho người mù: anh chỉ muốn sống giữa những người không thể thấy được gương mặt xấu xí ghê tởm của mình. Tuy nhiên, viên bác sĩ có lòng nhân ái đã thuyết phục được Merrick ở lại trong bệnh viện. Ông cũng thuyết phục được một người bạn của ông, một góa phụ trẻ đẹp, vào phòng Merrick, mỉm cười với anh, chào hỏi anh, bắt tay anh, nói tóm lại đối xử với anh như một con người. Merrick cũng ngả người cúi chào người đàn bà một cách lịch sự. Kể từ hôm đó, nơi Merrick đã diễn ra một sự thay đổi kỳ lạ: từ một con người bị săn đuổi và xử dụng như thú vật biến thành một con người bình thường như mọi người bình thường. Thật ra thay đổi không phải là “Người Voi”, mà chính là cái nhìn của người xung quanh. Kể từ đó, tài tử, giai nhân, nghệ sĩ và ngay cả công chúa xứ Wales cũng đều ghé vào bệnh viện để thăm anh. Sau bốn năm sống trong hạnh phúc, Merrick ra đi trong giấc ngủ bình an. Để ghi lại một trường hợp dị tật lạ thường trong lịch sử y khoa, bệnh viện London đã cho làm một bức tưọng bằng thạch cao. Hiện nay người ta vẫn còn thấy bức tượng này trong bảo tàng viện của bệnh viện. (Philip Yancey, Rumors of Another World, Zondervan, Michigan, USA, 2004, trg 191- 195)
Ở thế kỷ 19, nếu thánh nữ Mary MacKillop đã làm được một cuộc cách mạng thì cuộc cách mạng đó chính là thay đổi cái nhìn của người đương thời đối với người nghèo, nhứt là những người thổ dân. Bằng mọi giá, ngay cả đi “ăn xin” để lo cho công tác giáo dục trẻ em nghèo, thánh nữ không chỉ chứng tỏ phẩm giá, sự bình đẳng, khả năng vươn lên của người nghèo trong xã hội, mà còn khơi gợi được tình người vốn như vẫn còn ngủ vùi nơi nhiều người thời ấy. Là một tín hữu Kitô, được Tin Mừng của Chúa Giêsu thúc đẩy để dấn thân, chắc chắn thánh nữ Mary MacKillop đã ý thức hơn ai hết rằng mỗi người đều được tạo thành “theo hình ảnh” của Đấng Tạo Hóa và nơi thẩm cung mỗi người đều có những tâm tình cao quý cần được khơi dậy và nuôi dưỡng.
Trong chuyện “Nghìn Lẻ Một Đêm” của Ba Tư, tôi thích câu chuyện về một phiên tòa như sau: “Có hai người anh em nọ bắt trói được thủ phạm giết cha mình. Họ lôi kéo tên sát nhân đến trước quan tòa và yêu cầu xử theo luật mắt đền mắt răng thế răng. Kẻ sát nhân đã dùng đá để ném chết cha của họ thì hắn cũng phải bị ném đá theo như luật đã quy định…Trước mặt quan tòa, tên sát nhân đã thú nhận tất cả tội lỗi của mình. Nhưng trước khi bị đem ra xử, hắn chỉ xin một ân huệ là được trở về nhà trong vòng ba ngày để giải quyết mọi vấn đề có liên quan đến một người cháu được ký thác cho hắn trông coi từ nhỏ. Sau thời hạn đó, hắn sẽ trở lại để chịu tội. Quan tòa xem chừng như không tin ở lời cam kết của tên tử tội. Giữa lúc quan tòa đang do dự, thì từ đám đông tham dự phiên tòa, có một người giơ tay cam kết: “Tôi xin đứng ra bảo đảm cho lời hứa của tử tội. Nếu sau ba ngày, hẳn không trở lại, tôi sẽ chết thế cho hắn”.
Tên tử tội được tự do trong ba ngày để giải quyết chuyện gia đình. Đúng kỳ hẹn, giữa lúc mọi người đang chờ đợi chứng kiến cuộc hành quyết, hẳn hiên ngang tiến ra giữa pháp trường và dõng dạc tuyên bố: “Tôi đã giải quyết xong mọi việc trong gia đình. Giờ đây, theo đúng cam kết, tôi xin chịu tội. Tôi muốn trung thành với lời cam kết để người ta sẽ không nói: chữ tín không còn trên mặt đất này nữa.”
Sau lời phát biểu của tên tử tội, người đàn ông đã từng đứng ra bảo lãnh cho hắn cũng tiến ra giữa đám đông và tuyên bố: “Phần tôi, sở dĩ tôi đứng ra bảo lãnh cho người này là vì tôi không muốn để cho người ta nói: lòng quảng đại không còn trên mặt đất này nữa.”
Sau hai lời tuyên bố trên, đám đông gần như nín thở. Dường như ai cũng cảm thấy muốn thể hiện những gì là cao quý nhứt trong lòng người. Bỗng từ giữa đám đông, hai người thanh niên tiến ra và nói với quan tòa: “Thưa ngài, chúng tôi xin tha cho kẻ đã giết cha chúng tôi để người ta không còn nói: lòng tha thứ không còn hiện hữu trên mặt đất này nữa.” (Lẽ Sống, Đài Chân Lý Á Châu)
Giáo hội công giáo thường dựa trên một phép lạ, tức một vụ lành bệnh lạ lùng mà y khoa không giải thích được, như một bằng chứng ắt có và đủ để tiến hành việc tôn phong chân phước hay phong thánh. Bà Mary MacKillop cũng đã phải trải qua tiến trình ấy để trở thành chân phước và hiển thánh. Đã có phép lạ được gán cho sự bầu cử của bà. Là một người công giáo, tôi tin có những phép lạ như thế. Nhưng với tôi, “phép lạ” là chuyện xảy ra hằng ngày. Không chỉ ở bên kia cõi sống này, thánh nữ Mary MacKillop mới “bầu cử” cho  phép lạ được xảy ra. Sinh thời, nơi thánh nữ đã diễn biết bao nhiêu phép lạ. Cuộc sống “nổi loạn” vì người nghèo của bà tự nó cũng đã là một phép lạ. Là phép lạ không kém khi bà khơi dậy được tình người, sự cảm thông, tình liên đới, những cử chỉ san sẻ và trao ban. Cũng như các nhân vật trong câu chuyện nghìn lẻ một đêm trên đây, có lẽ thánh nữ Mary MacKillop đã suốt một đời hy sinh phục vụ người nghèo để tuyên bố: để cho tình người vẫn sống mãi trên mặt đất này.
Trong ý nghĩa ấy, với tôi, khi những người giàu có như Bill Gates, như Warren Buffet biết “cho đi” hầu hết hay trọn bộ tài sản của mình để cho không biết bao nhiêu người nghèo được “sống”, thì đó hẳn phải là những “phép lạ” vĩ đại mà ai cũng có thể thấy được.  Mỗi khi tình người được thể hiện bởi bất cứ ai, dù là một tín đồ tôn giáo hay người vô thần, tôi cũng nhận ra đó là một “phép lạ”. Vì vậy, trong cái nhìn của tôi, nghĩa cử của những người đã và đang ngày đêm cống hiến tim óc, sự tận tụy, hy sinh và có khi cả mạng sống của chính mình cho những con người cùng khổ, bị áp bức, bị tước đoạt các quyền làm người trên khắp thế giới, đều là những “phép lạ” liên tục mà con người luôn cần có để thăng tiến xã hội và nhân quyền.
Cũng với cái nhìn đó, theo tôi, “phép lạ” không nhất thiết phải đến từ một vị thánh, mà ai ai cũng có thể là phương tiện để Thiên Chúa làm nên những “phép lạ” lớn nhỏ trong cuộc sống hằng ngày. Làm cho một khuôn mặt đang đau khổ dàn dụa nước mắt chợt nở nụ cười nhờ một vòng tay ôm, một cử chỉ ân cần như thế không phải là một “phép lạ” nhãn tiền sao?
Noi gương thánh Mary Mackillop, điều tôi thấy mình cần phải làm là tiếp tục giúp cho những “phép lạ” mà bà đã làm khi còn sống xảy ra: đó là góp phần vào sứ mạng mà ông Mahammad Yunnus, Nobel Hòa bình 2006, người đã lập ra ngân hàng Grameen cho người nghèo vay không cần thế chấp,  đề ra là “sẽ đem đói nghèo vào viện bảo tàng.”
 19.10.2010




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét