Thứ Tư, 29 tháng 10, 2014

Tính Bản Thiện


Chu Thập
22/2/11

Mỗi tuần tôi đi câu cá không dưới 3 lần. Xem ra càng thêm tuổi thì nhịp điệu câu cá của tôi càng tăng tốc. Bao nhiêu thứ ghiền vướng phải trong cuộc đời, tôi đều có thể rũ bỏ được. Chỉ duy có câu cá là tôi chịu. Tôi cũng đã năm ba lần thử đi “kéo máy”. Nhưng rốt cục, tôi vẫn thấy “kéo máy” không bằng “kéo câu”.
Ngày xưa, các bậc “thức giả” thường đi câu để chờ thời. Tôi thấy mình chẳng còn “thời” để mà chờ nữa. Tôi đi câu với một mục đích rất thiết thực là kiếm cá để ăn. Nhứt là thời gian gần đây, đọc báo thấy trên sông Parramatta và trong toàn vịnh Sydney cá mắm đều bị nhiễm thủy ngân, tôi lại càng đâm ra nghi ngờ về các loại thủy sản bán trong các chợ cá. Thành ra động lực thúc đẩy tôi vác cần đi kiếm cá lại càng được củng cố hơn.
Nhưng dĩ nhiên, ngoài chuyện kiếm cá để gọi là “cải thiện” các bữa ăn, tôi cũng nhắm đến nhiều mục đích khác. Với tôi chẳng có môn giải trí nào giúp thư giãn cho bằng câu cá. Câu cá không những giúp tôi rèn luyện sự kiên nhẫn, mà cũng là thời gian lý tưởng để tôi suy nghĩ, đào bới nhiều vấn đề. Tôi luôn thấy cái cảnh một mình “ta với ta” giữa trời đất mênh mông, bốn bề sông nước giúp cho tư tưởng dễ phóng khoáng hơn. Nhưng quan trọng hơn cả, đối với tôi, đi câu là để gặp gỡ và “giao lưu”. Bãi câu là nơi tôi có thể tiếp xúc được với đủ mọi hạng người, trí thức, dân giả, giàu sang, bụi đời, người lớn, trẻ con, người tử tế cũng như kẻ “mất dạy”.
Tôi đã gặp được rất nhiều người tử tế trên bãi câu. Người được tôi trân quý nhứt là một ông già gốc Ý. Cử chỉ tử tế mà ông dành cho tôi lẽ ra phải được tôi ghi lại và gởi đến tạp chí Reader’s Digest để đăng trong mục “Lòng Tử tế từ Người Xa lạ” mới phải. Lần đầu tiên tôi thực sự cảm động là khi tôi kéo được một con ghẹ lớn. Tôi thường không mang theo vợt. Hôm đó, thấy tôi vất vả chiến đấu mà không thể đưa con ghẹ lên bờ, ông già người Ý mà tôi chưa từng quen biết đã quăng cần và vác vợt chạy đến để “cứu bồ”. Chúng tôi trở thành “bạn câu” từ giây phút đó. Lần khác, tôi đang loay hoay mà không sao kéo được con “long tom” (loại cá kìm) lên, ông cũng chạy đến tiếp cứu. Từ đó, ông thường chia sẻ cho tôi kinh nghiệm câu cá. Ông cho tôi biết chỗ nào có cá hanh, chỗ nào có cá chai và phải làm thế nào để câu được cá sủ. Thật ra, tôi không tiếp thu cái kinh nghiệm câu cá của ông cho bằng tấm lòng thành thật và quảng đại của ông.
Những người bạn tốt như ông già Ý này quả không thiếu trên bãi câu. Nhưng thỉnh thoảng tôi cũng gặp những bản mặt mà tôi cứ phải đối xử bằng câu châm ngôn “tránh voi chẳng hổ mặt nào”. Khó quên nhứt là một cặp vợ chồng người Úc chính hiệu mà tôi mới gặp từ vài tháng nay. Người chồng vừa bắt đầu nghỉ hưu trong khi bà vợ vẫn còn làm chủ một tiệm cắt tóc. Họ ghiền câu đến độ có mặt ở một bãi câu quen thuộc hầu như mỗi ngày. Nhưng nhìn cách quăng câu của họ thì tôi đoán họ không phải là “dân câu” thứ thiệt. Lần nọ, sau một mẻ cá lớn, tôi chỉ cho họ cái chỗ đắc ý nhứt của tôi. Tôi nghe nói rằng những tay câu chuyên nghiệp thường giữ một số bí mật nhà nghề, nhứt là không bao giờ hé răng cho người khác biết chỗ nào có nhiều cá. Tôi cũng nghe kể có một người nào đó, hễ thấy người khác giựt được cá, liền đến bên cạnh và nói một câu nghe “dễ xa nhau”  như “cho xin một con”. Xin một con cá thì chẳng có vấn đề gì, nhưng cứ bám sát bên cạnh mình khiến cho giây câu dính vào nhau, nhằm lúc cá đang ăn thì phiền không chịu được.
Vốn là dân “nghiệp dư” cho nên có bao nhiêu “bí mật nhà nghề”, tôi đều vui vẻ tuôn ra cả. Tôi cảm thấy vui khi chỉ cho cặp vợ chồng Úc nói trên cái chỗ “bí mật” của tôi vì thấy họ cứ về tay không. Thế là từ đó, mỗi lần ra bãi câu, hai vợ chồng này luôn bám trụ ở đó. Ai đến và đứng trước thì ưu tiên. Đó là nguyên tắc nền tảng mà tôi luôn tôn trọng. Thế nhưng mặc cho tôi có đến trước, hai ông bà này vẫn cứ xem như tôi không có mặt trên đời này; họ xen vào giữa, ông đứng một bên, bà đứng một bên và “pháo kích” tứ tung cho đến khi tôi không nhúc nhích được nữa và phải bỏ đi nơi khác. Về sau, cứ thấy hai vợ chồng này là tôi đành phải ca bài “ta dại ta tìm nơi vắng vẻ” vậy.
Cũng may, “chỗ làm ăn” của tôi không đến nỗi “đô hội” như Windang ở Wollongong hay The Entrance ở Central Coast là những nơi mà tôi thỉnh thoảng nghe nói đến những cuộc đụng độ giữa các sắc dân hay giữa người câu cá với các nhân viên sở quản lý ngư nghiệp. Đi câu để giải sầu giải trí mà để vướng vào những chuyện nhức đầu như thế thì thật là đáng tiếc!
Nhưng có những điều đáng tiếc mà có khi mình không lường và cũng chẳng tránh được. Đó là trường hợp mới xảy ra cho tôi hồi tuần trước. Vừa ra bãi câu, lúc đó cũng đã 5,6 giờ chiều, tôi gặp 3 chú nhóc con tuổi từ 10 đến 12  đáng bơi bì bõm trong một cái hồ nước mặn bên cạnh. Đã từng là một thằng nhãi ranh chuyên chọc phá người khác cho nên tôi không cảm thấy bị 3 chú nhóc làm phiền. Nhưng linh tính báo cho tôi biết là tôi đang gặp thứ “dữ”. Mà quả đúng như vậy. Chỉ vài phút sau, một chiếc phà chở khách đi ngang chỗ tôi đang câu. Người tài công cho phà dừng lại và rút cái máy điện thoại cầm tay ra thu hình ba chú nhóc, kèm với lời đe dọa: “Tao sẽ truy tố tụi bay”. Hẳn phải có “sự cố” trầm trọng lắm khiến người tài công mới có thái độ giận dữ như thế. Dù vậy, tôi vẫn còn nhìn chúng nó với con mắt đầy thiện cảm. Một lúc sau, chúng bắt đầu nấn ná đến gần tôi và gạ gẫm mượn một cần câu để gọi là “trổ tài”. Thằng lớn nhứt khoe rằng nó đã từng câu được một con cá chai bự. Nghĩ rằng mang lại một niềm vui cho người khác thì cũng chẳng mất mát gì, cho nên tôi đã không ngần ngại “giao trứng cho ác”. Thế là ba chú nhóc mang chiếc cần của tôi đi chỗ khác quăng lung tung, không phải để câu mà có lẽ để “chọc giận” tôi. Sau khi đã “xài xể” cái cần câu cưng của tôi, chúng trở lại gần chỗ tôi và bắt đầu giở đủ mọi trò tinh quái. Ngày xưa, tôi cũng tinh nghịch và ranh mãnh, nhưng cái cường độ “gian ác” của tôi chẳng tới đâu so với mấy chú nhóc này. Chúng còn định chôm mấy con cái hanh tôi vừa câu được. Bị tôi phát giác, thằng nhóc nhỏ nhứt liền giở giọng “ông cho mượn con cá hanh lớn nhứt để tui mang vào một tiệm ăn bên cạnh khoe với mẹ”. Biết tôi đi guốc trong bụng, ba thằng nhóc liền tấn công tôi bằng mọi cách. Tôi biết mình thừa sức để ăn thua đủ với chúng, nhưng thấy không có lợi, tôi đành xuống giọng để giảng bài “quốc văn giáo khoa thư”. Đại khái, tôi nói: “Tao đã đối xử với chúng mày như những người bạn. Tại sao chúng mày lại đáp trả tệ bạc như vậy?” Không ngờ lời phân trần của tôi lại có sức đánh động những tâm hồn mà có lúc tôi nghĩ chẳng còn chút “lương thiện” nào. Thằng nhóc đầu đàn xem ra biết điều. Nó giả lả và chỉ cho tôi cách thắt chặt tình bạn của người Úc. Tôi làm theo và coi như đã “ký kết” tình thân hữu với ba thằng ôn con.
Mấy ngày gần đây, tôi chưa gặp lại chúng. Nhưng trong tôi cứ canh cánh một suy nghĩ: “Nhân chi sơ tính bản thiện”. Tôi tin rằng ở trong đáy thẳm tâm hồn của bất cứ con người nào cũng có tấm lòng nhân, sự thiện hảo và tử tế. Không có ai tự bản chất là xấu xa; không có ai sinh ra là “ác quỷ”. Tuy nhiên, con người khác với cầm thú. Thú vật được huấn luyện để tuân lệnh và làm như một cái máy. Con người thì khác. Giáo dục một con người là đánh thức cái tính thiện trong con người đó để lòng quảng đại, sự tử tế, cái thiện được thể hiện một cách nhuần nhuyễn như một phản xạ tự nhiên.
Tôi nghĩ đến cố tổng thống Hoa kỳ Ronald Reagan. Đây là một mẫu người mà tính bản thiện không bao giờ chết. Con gái của ông là bà Petti Davis kể lại rằng sau khi ông phải sống những năm tháng cuối đời với bệnh Alzheimer, tức bệnh lẫn, bà thường đưa ông đi bộ gần nhà. Nhiều người nhận ra ông và kính cẩn chào ngài tổng thống. Ông mỉm cười chào lại rồi hỏi nhỏ người con gái, ông có biết họ không, tại sao họ lại biết và chào ông. Ông không còn nhớ mình đã từng là tổng thống của một quốc gia hùng mạnh nhứt thế giới. Biết cha mình đã bị bệnh lẫn tàn phá hết ký ức thời tổng thống, người con gái chỉ còn an ủi cha mình: “Có gì đâu, họ biết ba ở gần đây”. Ông Reagan mỉm cười: “Họ tử tế quá con há.”
Bà Petty Davis nói rằng bệnh Alzheimer có thể hủy hoại nhiều thứ nơi ông, nhưng nó không giết chết được tính dễ thương, hiền hậu, lịch sự, khiêm tốn, lòng biết ơn…tức cái gốc thiện nơi con người của cố tổng thống Reagan. (x.Việt luận 18/2/2011)
Nơi một con người đã từng phạm tội ác, cái gốc thiện ấy cũng vẫn tồn tại. Tôi tin như thế khi đọc bản tin về một người đàn ông đã giết chồng, cướp vợ, bị tù, vượt ngục, hoàn lương và làm việc trong một bệnh viện tại Queensland trong 15 năm trời mà chẳng ai hay biết, bởi vì ông đã sống như một con người dễ thương, vị tha, quảng đại, phục vụ… (báo đã dẫn)
Dĩ nhiên, sống là một cuộc chiến đấu liên lỉ. Nơi con người lúc nào cũng diễn ra cuộc song đấu một mất một còn giữa thiện và ác. Nếu không được giáo dục đầy đủ, các sức mạnh của tăm tối có thể lấn át và đè bẹp cái tính bản thiện nơi con người. Hoặc giả có được giáo dục, nhưng nếu con người chiều theo thú tính, để cho lòng gian tham điều khiển thì lúc đó cái gốc thiện vẫn có thể đầu hàng trước điều ác. Ferdinand Marcos, Ben Ali, Hosni Mubarak là những nhà độc tài tham quyền cố vị, không tránh khỏi những hành động bạo tàn trong lúc cai trị. Nhưng nếu các cuộc cách mạng “sức mạnh của quần chúng” hay “cách mạng hoa lài” có thành công một phần là bởi những nhà độc tài này đã chấp nhận ra đi trong nhục nhã hơn là sử dụng bạo lực để tàn sát những người biểu tình ôn hòa và bám lấy quyền lực. Nơi những con người này, chắc chắn vẫn còn có đó cái gốc thiện khiến họ không lấy sức mạnh bạo tàn để đối xử với người dân vô tội. Tại sao Hitler đã có thể đối xử tàn ác đối với người đồng loại của mình như thế? Tại sao một Đặng Tiểu Bình đã có thể tàn sát những người sinh viên biểu tình ôn hòa tại quảng trường Thiên An Môn dạo tháng 6 năm 1989?..Nơi này cái gốc thiện vẫn còn thắng thế trong lòng người. Nơi kia, những sức mạnh tăm tối đã bóp nghẹt cái tính bản thiện ấy.
Những cuộc cách mạng ôn hòa đã và đang diễn ra trong thế giới Á rập trong thời gian gần đây không khỏi khiến nhiều người nhớ lại cha đẻ của chủ trương tranh đấu bất bạo động là Mahatma Gandhi. Chủ trương này đã nẩy sinh khi ông còn hành nghề luật sư tại Nam Phi. Mahatma tích cực tham gia các cuộc biểu tình để tranh đấu cho các quyền dân sự của giới công nhân và người dân bản xứ. Vì là người da mầu, ông đã từng bị tống ra khỏi xe lửa, đuổi ra khỏi khách sạn và tiệm ăn cũng như bị giam tù. Nhưng những cuộc biểu tình phản đối của ông xem ra không tạo được tác động nào nơi những kẻ làm luật và thi hành luật. Chỉ sau khi đọc tác phẩm “Nước Thiên Chúa ở Trong Các Ngươi” của văn hào Nga Leo Tolstoy và thư từ liên lạc với nhà văn này, ông mới quyết định đón nhận “từng chữ” giáo huấn thường được mệnh danh là “Bài Giảng trên Núi” của Chúa Giêsu trong đó có chứa đựng toàn bộ chủ trương tranh đấu bất bạo động.
Trong cuốn phim “Gandhi” do nhà đạo diễn Richard Attenborough thực hiện và trình chiếu năm 1983, người ta thấy có cảnh Gandhi tìm cách thuyết phục một vị mục sư đương đầu với một đám thanh niên du đãng tại Nam Phi. Vị mục sư định bỏ chạy, nhưng Gandhi nhắc lại lời của Chúa Giêsu: “Khi kẻ thù tát vào má phải, hãy chìa cả má trái cho nó.”
Cả cuộc đời của người khai sinh ra chủ trương tranh đấu bất bạo động là một cuộc chiến đấu không ngừng giữa sự hèn nhát và lòng can đảm, giữa hận thù và thương yêu. Tựu trung đó là cuộc chiến giữa Thiện và Ác, giữa sức mạnh của sự Dữ và cái gốc Thiện trong lòng người.
Vinh quang đích thực dành cho những ai chiến thắng trong cuộc chiến ấy.



                         

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét