Thứ Hai, 20 tháng 10, 2014

Sinh Lão Bệnh Tử 2

Bệnh 
                                                                          Chu Thập
2/12/10

“Ông có hút thuốc không? nhiều hay ít? Ông có uống rượu không? Bao nhiêu? Bao lâu rồi? Trong gia đình ông, có ai bị ung thư , tiểu đường hay đột quỵ, cao máu  không?...” Đó là một số câu hỏi mà cứ mỗi lần “đổi” một ông bác sĩ gia đình hay mỗi khi phải vào bệnh viện để làm một cuộc xét nghiệm, tôi lại phải trả lời. Chẳng khác nào một bản khai lý lịch thời còn ở trong nước mà tôi phải thuộc lòng. Tệ hơn, có lúc tôi có cảm tưởng như mình là một “phạm nhân” phải  cung khai khi ra trước vành móng ngựa. Cái mặc cảm ấy xem ra cũng “chính đáng” thôi. Bởi lẽ xét cho cùng, tôi chính là “phạm nhân” gây ra bao nhiêu “tội ác” cho cái thân tôi.
Tôi nghiệm thấy câu nói “chúng ta ăn uống làm sao thì người chúng ta thế đấy” (you are what you eat) đúng cho tôi hoàn toàn. Hay gợi hình hơn, câu nói của một nhà hiền triết La mã nào đó xem ra đúng hơn: “người ta tự đào huyệt cho chính mình bằng hàm răng của mình”. Tôi cứ ngẫm nghĩ về hai câu nói này mà thấy mình đáng bị mấy ông bác sĩ mang ra tòa để “xét xử”. Nghĩ lại cách ăn uống của tôi cách đây 20 năm mà tôi thấy run. Lúc ấy, mặc dù đã có khái niệm rất rõ ràng về những nguy cơ của mỡ trong máu, tôi vẫn cứ sống theo cái triết lý “chưa thấy quan tài chưa đổ lệ”; ai có bị đốn ngã thì chuyện của người đó, tôi vẫn cứ tỉnh bơ ăn nhậu. Tôi chẳng biết kiêng cữ bất cứ của ngon vật lạ nào. Mà khốn nỗi, món nào cũng thế: càng béo bổ thì càng ngon miệng; cứ có dầu mỡ, chiên xào thì cái gì cũng ngon.  Bia rượu thì dĩ nhiên, tôi uống thả cửa, thuốc lá thì tôi cũng chẳng từ. Ở cái tuổi còn sung sức, tôi cứ tưởng mình thuộc loại mình đồng da sắt. Cũng may, tôi đã biết dừng lại tạm…đúng lúc. Vậy mà, cái tàn tích của những năm tháng sống như thể mình sẽ không bao giờ đau bệnh và chết, vẫn còn đó.  Gần đây, đọc một bài phân tách về tình trạng ô nhiễm của vịnh Sydney trên báo The Sydney Morning Herald, tôi lại càng liên tưởng đến cách ăn uống của tôi hơn. Theo bài báo, hầu như tất cả các loại cá, nhứt là những loại cá ngon như cá hanh, cá Kingfish, cá Đục đều bị nhiễm chất thủy ngân vốn đã được thải một cách bừa bãi xuống vịnh này từ hàng mấy chục năm trước. Tình trạng bị nhiễm thủy ngân của các loại cá trong vịnh nặng đến độ trở thành nguy hiểm cho sức khỏe của người tiêu thụ. Bao nhiêu chất độc chìm sâu dưới lòng biển vẫn còn đó. Tôi nghĩ đến những “chất độc” vốn vẫn còn tích lũy trong thân thể tôi do cách ăn uống bừa bãi của mình trong bao nhiêu năm qua. “Tham thực cực thân”, con người tôi được hình thành từ những gì tôi đã tiếp nhận qua cửa miệng tôi. Ngày nay, cách ăn uống thừa mứa tại các nước giàu có xem ra cũng gây tử vong và tốn kém chẳng thua gì tình trạng thiếu dinh dưỡng tại các nước nghèo. Càng ngày tôi càng xác tín rằng cách ăn uống không chỉ có thể gây ra bệnh tật, mà cũng có thể giúp đề phòng và chữa bệnh. Thiếu thốn nhưng biết sống theo kỷ luật và ăn uống đúng cách, con người vẫn có thể sống khỏe mạnh. Học giả Lâm Ngữ Đường của Trung Hoa đã từng giới thiệu với thế giới cái quan niệm sống đẹp và khỏe của người Trung Hoa là xem thức ăn cũng là dược phẩm để phòng bệnh, chữa bệnh và dưỡng bệnh.
Trong quá khứ, tôi đã xem thường cái quan niệm sống ấy. Gần đây, thân xác tôi chẳng khác nào một cái máy xe hơi, tuy chưa đến nỗi “lột dên” vì thiếu dầu mỡ, nhưng có quá nhiều bộ phận đã bắt đầu “rơ”. Choáng váng, chóng mặt, xây xẩm, nhức đầu…tôi đã trải qua bao nhiêu cái hẹn, cái hẹn này “đẻ” ra cái hẹn khác, “qua tay” không biết bao nhiêu chuyên viên kỹ thuật y tế “hành hạ”, mà cho tới nay các bác sĩ vẫn chưa thể nói một cách chính xác tôi đang bệnh gì. Tôi thấy mình đúng là một phạm nhân chờ quan tòa “gõ búa”.
Dù sao, cho tới giờ phút này, tôi thấy mình vẫn còn may mắn, bởi vì cơ thể tôi vẫn còn có khả năng để biểu hiện một số “triệu chứng” không bình thường. Có người xem ra khỏe mạnh, không để lộ bất cứ dấu hiệu “đau yếu” nào, bỗng lên cơn đột quỵ và ra đi không kịp nói một lời từ giã. Có người có lá gan “nát bấy” mà vẫn không cảm thấy hề hấn gì, đến lúc khám phá ra bệnh thì đã muộn.
Trong ngôn ngữ Việt nam, khi nói đến bệnh tật, lúc nào chúng ta cũng cho hai chữ “đau” và “bệnh” đi với nhau. “Bệnh” thường làm cho chúng ta “đau”. Nhưng lắm khi, chúng ta “bệnh” mà chẳng thấy “đau”. Bác sĩ kiêm chuyên gia tâm lý M.Scott Beck, tác giả của cuốn sách nổi tiếng “The Road Less Traveled” (con đường ít được đi) viết rằng “triệu chứng và bệnh tật không phải là một. Bệnh tật có trước các triệu chứng rất lâu. Triệu chứng không phải là bệnh tật mà đúng hơn là khởi đầu của việc chữa trị bệnh tật. Chẳng ai mong có các triệu chứng. Nhưng chúng là một hiện tượng ân sủng, một món quà của Thượng Đế, một sứ điệp từ  cõi vô thức để khởi đầu sự tự vấn và sửa chữa.” (trích trong “Where is God When it Hurts” (Thiên Chúa ở đâu khi con người đau khổ) của Philip Yancey)
Có “bệnh” mà đồng thời cũng biết “đau” quả là một điều may mắn.
Bác sĩ Paul Brand là một trong những nhà tiên phong trong việc nghiên cứu và chữa trị bệnh phung cùi. Sau nhiều năm phục vụ các bệnh nhân phung cùi tại Ấn độ, ông đưa ra nhận xét rằng những người mắc một số chứng bệnh như tiểu đường và phung cùi có nguy cơ trầm trọng là mất dần những ngón tay, ngón chân và ngay cả tứ chi chỉ vì hệ thống báo động về sự đau đớn của họ không còn hoạt động nữa. Họ tự bị hủy hoại mà không hay biết.
Ông nhận được tài trợ khoảng vài triệu Mỹ kim để thực hiện một thiết bị giúp cho những người bị bệnh như thế cảm nhận được “đau đớn” để từ đó có thể phòng ngừa và chữa trị. Mỗi cái “máy đau” do bác sĩ Brand và nhóm nghiên cứu của ông phát minh giá không tới 450 Mỹ kim. Tuy nhiên, do hệ thống thần kinh quá phức tạp của con người, không có chiếc máy nào đã có thể báo được một nỗi đau chính xác. Do đó, sau vài năm thử nghiệm, cuối cùng bác sĩ Brand đành bỏ cuộc và tuyên bố rằng không có máy móc nào có thể thay thế cho hệ thống báo động của con người. Theo ông, đau đớn là điều chẳng ai muốn có. Nhưng chính nhờ biết đau mà chúng ta mới không tự hủy hoại. Nếu không có một tín hiệu về bệnh tật được phát ra, chúng ta sẽ chẳng bao giờ để ý đến nó và tìm cách chữa trị. Theo bác sĩ Brand , “đau đớn” là một món quà!
Phản ứng thông thường của chúng ta khi gặp đau đớn là tìm cách giảm đau. Ngày nay, Aspirine là loại thuốc thông dụng nhứt. Hễ cứ nhức đầu, mỏi mệt là người ta uống Aspirine. Thật ra, giảm đau chỉ là một cách đối đầu với triệu chứng của bệnh tật hơn là chính bệnh tật.  Giảm đau có thể dẫn đến những hậu quả không lường được. Bob Gross là một trong những danh thủ bóng rổ nổi tiếng của Mỹ. Ngày nọ, anh cảm thấy đau 3 chỗ trong bàn chân. Biết anh phải tham dự một trận đấu quan trọng, bác sĩ của đội tiêm cho anh một mũi Marcaine. Đây là một loại thuốc giảm đau cực mạnh. Gross chạy và tung người lên cao như thường lệ, cho đến một lúc anh ngã quỵ xuống mà vẫn không thấy đau. Thì ra, xương bàn chân của anh đã bị mục. Thuốc giảm đau đã giúp anh không còn cảm thấy đau, nhưng đã hủy hoại bàn chân và cả sự nghiệp của anh.
“Đau” làm cho tôi khó chịu. Nhưng có lẽ tôi phải cám ơn những cơn đau trong cơ thể tôi, bởi vì chúng báo động cho tôi biết rằng cơ thể tôi đang gặp nguy hiểm; chúng khởi động hệ thống miễn nhiễm xung quanh vết thương và buộc tôi phải ngưng những hoạt động có thể làm cho cơ thể tôi ra yếu nhược hơn. Những cơn đau đòi hỏi tôi phải quan tâm đến cơ thể tôi và đây là điều tối cần để tôi có thể lành bệnh.
Nói chung, đau đớn, bệnh tật, khổ đau, mất mát…có thể mang lại sức mạnh cho con người. Một tác giả nọ đã nghiên cứu về cuộc đời của khoảng 300 nhà lãnh đạo được xem là có ảnh hưởng lớn trên lịch sử nhân loại. Cuộc nghiên cứu cho thấy rằng sợi chỉ xuyên suốt qua những cuộc đời ngoại hạng này lại chính là tình trạng “mồ côi” của họ. Nói chung, những người này đều có một tuổi thơ bất hạnh. Danh sách của những người mà tác giả cuộc nghiên cứu gọi là “những người mồ côi lãnh đạo thế giới” gồm có những tên tuổi như Alexandre đại đế, Julius Caesar, Robespierre, Georges Washington, Napoleon, Nữ hoàng Victoria, nữ thủ tướng Do thái Golda Meir và ngay cả những đồ tể thế giới như Hitler, Lenin, Stalin và Fides Castro. Sigmund Freud, cha đẻ của phân tâm học, đã từng nói đến “mặc cảm bù trừ”. Đôi môi dầy của nữ tài tử Brigitte Bardot có thể là động lực thúc đẩy cô không ngần ngại tỏ ra táo bạo trong những màn diễn nóng bỏng nhứt, cũng như từ xa xưa, theo suy nghĩ của triết gia Pháp Blaise Pascal, cái mũi của nữ hoàng Cleopatra có thể ảnh hưởng đến lịch sử thế giới. Bất hạnh có thể thay đổi vận mệnh con người và thời cuộc đất nước hay thế giới. Đơn sơ mộc mạc hơn, ông bà chúng ta xếp hạng: “nhứt lé, nhì lùn, tam hô, tứ sún” hay “có tật có tài”. Phải chăng ông bà chúng ta chẳng muốn ngụ ý rằng những kẻ đã từng trải qua đau khổ là những kẻ đáng trọng nể hay đáng sợ.
Tuổi thơ bất hạnh hay nỗi khổ đau trong những năm tháng đầu đời đã biến thành sức mạnh cho nhiều người. Điển hình nhứt là trường hợp nhà phát minh lẫy lừng nhứt trong lịch sử nhân loại là ông Thomas Edison. Có chỉ số thông minh dưới trung bình, sau 3 tháng cắp sách đến trường, Edison bị cho về nhà vì bị xem là “chậm trí”. Do bị bệnh về đường hô hấp, mãi 2 năm sau, ông mới cắp sách trở lại trường. Hơn nữa, do bệnh tật, ông lại bị khiếm thính. Ngoài ra, cũng do bệnh tật, Edison trở nên bướng bỉnh, khó tính. Ông thích chơi với máy móc và lửa đến độ làm cháy cả nhà. Một con người như thế tưởng chỉ là “đồ bỏ” của xã hội, vậy mà về sau đã trở thành một nhà phát minh lừng danh nhứt trong lịch sử nhân loại.
Cố mục sư Martin Luther King, người đã hy sinh mạng sống vì cuộc tranh đấu cho quyền bình đẳng của người Mỹ gốc Phi Châu đã từng tuyên bố: “Điều gì không hủy diệt được tôi đều làm cho tôi ra mạnh mẽ hơn.”
Ít nhứt, về nhân cách, đau khổ làm cho con người mạnh mẽ hơn, bởi vì đau khổ giúp cho con người phân biệt được giữa những nhu cầu thiết yếu và các thứ xa xí.
Đau khổ khiến con người không còn tìm kiếm sự an toàn trong của cải vật chất, danh vọng, quyền lực mà là những giá trị đích thực của cuộc sống.
Nhưng quan trọng hơn cả, đau khổ, cách riêng đau bệnh, làm cho con người biết cảm thông với người khác hơn. Không có một trường học nào dạy con người biết cảm thông hơn khổ đau.
Trong một thế giới mà sự cạnh tranh tiếp tục là phương cách trổi vượt để thiết lập quan hệ giữa người với người, dù là trong chính trị, thể thao hay kinh tế, thì xem ra sự cảm thông, nhứt là cảm thông với những người kém may mắn, những người khuyết tật, người già lão hay bệnh tật xem ra không còn có chỗ đứng nữa. Bất an, lo lắng, dễ bị tổn thương, chúng ta xem cạnh tranh như luật sinh tồn. Trong bất cứ một cuộc tranh tài thể thao hay trong bất cứ một cuộc bầu cử nào, kẻ chiến thắng vẫn luôn được nể trọng và ngưỡng mộ. Trái lại, con người bất lực quằn quại trên giường bệnh hay bị nghiền nát trong khổ đau ít khi được nhìn nhận và quan tâm tới.
Thế nhưng, khi cùng mắc một chứng bệnh, cùng phải nằm chung một khu trong bệnh viện, và cùng phải trải qua các cuộc trị liệu như nhau, người ta mới nhận ra rằng: chẳng ai còn muốn “cạnh tranh” ở đây nữa. Tất cả đều “bình đẳng” trước bệnh hoạn, người thành công, giàu có cũng chẳng hơn gì người thất bại, nghèo hèn: ai cũng đau đớn, ai cũng phải trải qua trị liệu, ai cũng phải uống đủ thứ thuốc, ai cũng thấy cô đơn, hoang mang…Những cảm giác này, người thân khỏe mạnh có muốn chia sẻ cũng không được.
Trước đây, khi chưa bị bệnh, tôi cũng vậy. Tôi thờ ơ nghe người khác tỉ mỉ tả về những sự đau đớn của họ và tự hỏi: sao họ lại nhớ “dai”  những gì liên quan đến căn bệnh như thế ? Giờ đây, tôi hiểu tại sao, bởi vì khi tôi bệnh thì chẳng còn cái gì trên đời này quan trọng hơn căn bệnh của tôi.
Cám ơn Bệnh, nếu không có ngươi, làm sao tôi có thể thực sự cảm thông với các bệnh nhân và có dịp nằm “ẹp” một chỗ, thấm thía rằng chẳng có gì quí hơn sức khỏe.






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét