Bệnh
Chu Thập
2/12/10
2/12/10
“Ông
có hút thuốc không? nhiều hay ít? Ông có uống rượu không? Bao nhiêu? Bao lâu rồi?
Trong gia đình ông, có ai bị ung thư , tiểu đường hay đột quỵ, cao máu không?...” Đó là một số
câu hỏi mà cứ mỗi lần “đổi” một ông bác sĩ gia đình hay mỗi khi phải vào bệnh
viện để làm một cuộc xét nghiệm, tôi lại phải trả lời. Chẳng khác nào một bản
khai lý lịch thời còn ở trong nước mà tôi phải thuộc lòng. Tệ hơn, có lúc tôi có
cảm tưởng như mình là một “phạm nhân” phải
cung khai khi ra trước vành móng ngựa. Cái mặc cảm ấy xem ra cũng “chính
đáng” thôi. Bởi lẽ xét cho cùng, tôi chính là “phạm nhân” gây ra bao nhiêu “tội
ác” cho cái thân tôi.
Tôi nghiệm thấy
câu nói “chúng ta ăn uống làm sao thì người
chúng ta thế đấy” (you are what you eat) đúng cho tôi hoàn toàn. Hay gợi hình hơn, câu nói của một
nhà hiền triết La mã nào đó xem ra đúng hơn: “người ta tự đào huyệt cho chính mình bằng hàm răng của mình”. Tôi cứ
ngẫm nghĩ về hai câu nói này mà thấy mình đáng bị mấy ông bác sĩ mang ra tòa để
“xét xử”. Nghĩ lại cách ăn uống của tôi cách đây 20 năm mà tôi thấy run. Lúc ấy,
mặc dù đã có khái niệm rất rõ ràng về những nguy cơ của mỡ trong máu, tôi vẫn cứ
sống theo cái triết lý “chưa thấy quan tài chưa đổ lệ”; ai có bị đốn ngã thì
chuyện của người đó, tôi vẫn cứ tỉnh bơ ăn nhậu. Tôi chẳng biết kiêng cữ bất cứ
của ngon vật lạ nào. Mà khốn nỗi, món nào cũng thế: càng béo bổ thì càng ngon
miệng; cứ có dầu mỡ, chiên xào thì cái gì cũng ngon. Bia rượu thì dĩ nhiên, tôi uống thả cửa, thuốc
lá thì tôi cũng chẳng từ. Ở cái tuổi còn sung sức, tôi cứ tưởng mình thuộc loại
mình đồng da sắt. Cũng may, tôi đã biết dừng lại tạm…đúng lúc. Vậy mà, cái tàn
tích của những năm tháng sống như thể mình sẽ không bao giờ đau bệnh và chết, vẫn
còn đó. Gần đây, đọc một bài phân tách về
tình trạng ô nhiễm của vịnh Sydney trên báo The Sydney Morning Herald, tôi lại
càng liên tưởng đến cách ăn uống của tôi hơn. Theo bài báo, hầu như tất cả các
loại cá, nhứt là những loại cá ngon như cá hanh, cá Kingfish, cá Đục đều bị nhiễm
chất thủy ngân vốn đã được thải một cách bừa bãi xuống vịnh này từ hàng mấy chục
năm trước. Tình trạng bị nhiễm thủy ngân của các loại cá trong vịnh nặng đến độ
trở thành nguy hiểm cho sức khỏe của người tiêu thụ. Bao nhiêu chất độc chìm
sâu dưới lòng biển vẫn còn đó. Tôi nghĩ đến những “chất độc” vốn vẫn còn tích lũy
trong thân thể tôi do cách ăn uống bừa bãi của mình trong bao nhiêu năm qua. “Tham
thực cực thân”, con người tôi được hình thành từ những gì tôi đã tiếp nhận qua
cửa miệng tôi. Ngày nay, cách ăn uống thừa mứa tại các nước giàu có xem ra cũng
gây tử vong và tốn kém chẳng thua gì tình trạng thiếu dinh dưỡng tại các nước
nghèo. Càng ngày tôi càng xác tín rằng cách ăn uống không chỉ có thể gây ra bệnh
tật, mà cũng có thể giúp đề phòng và chữa bệnh. Thiếu thốn nhưng biết sống theo
kỷ luật và ăn uống đúng cách, con người vẫn có thể sống khỏe mạnh. Học giả Lâm
Ngữ Đường của Trung Hoa đã từng giới thiệu với thế giới cái quan niệm sống đẹp
và khỏe của người Trung Hoa là xem thức ăn cũng là dược phẩm để phòng bệnh, chữa
bệnh và dưỡng bệnh.
Trong quá khứ,
tôi đã xem thường cái quan niệm sống ấy. Gần đây, thân xác tôi chẳng khác nào một
cái máy xe hơi, tuy chưa đến nỗi “lột dên” vì thiếu dầu mỡ, nhưng có quá nhiều
bộ phận đã bắt đầu “rơ”. Choáng váng, chóng mặt, xây xẩm, nhức đầu…tôi đã trải
qua bao nhiêu cái hẹn, cái hẹn này “đẻ” ra cái hẹn khác, “qua tay” không biết
bao nhiêu chuyên viên kỹ thuật y tế “hành hạ”, mà cho tới nay các bác sĩ vẫn
chưa thể nói một cách chính xác tôi đang bệnh gì. Tôi thấy mình đúng là một phạm
nhân chờ quan tòa “gõ búa”.
Dù sao, cho tới
giờ phút này, tôi thấy mình vẫn còn may mắn, bởi vì cơ thể tôi vẫn còn có khả
năng để biểu hiện một số “triệu chứng” không bình thường. Có người xem ra khỏe
mạnh, không để lộ bất cứ dấu hiệu “đau yếu” nào, bỗng lên cơn đột quỵ và ra đi không
kịp nói một lời từ giã. Có người có lá gan “nát bấy” mà vẫn không cảm thấy hề hấn
gì, đến lúc khám phá ra bệnh thì đã muộn.
Trong ngôn ngữ
Việt nam, khi nói đến bệnh tật, lúc nào chúng ta cũng cho hai chữ “đau” và “bệnh” đi với nhau. “Bệnh” thường làm cho chúng ta “đau”. Nhưng lắm
khi, chúng ta “bệnh” mà chẳng thấy “đau”. Bác sĩ kiêm chuyên gia tâm lý M.Scott
Beck, tác giả của cuốn sách nổi tiếng “The
Road Less Traveled” (con đường ít được đi) viết rằng “triệu chứng và bệnh tật không phải là một. Bệnh tật có trước các triệu
chứng rất lâu. Triệu chứng không phải là bệnh tật mà đúng hơn là khởi đầu của
việc chữa trị bệnh tật. Chẳng ai mong có các triệu chứng. Nhưng chúng là một hiện
tượng ân sủng, một món quà của Thượng Đế, một sứ điệp từ cõi vô thức để khởi đầu sự tự vấn và sửa chữa.”
(trích trong “Where is God When it Hurts” (Thiên Chúa ở đâu khi con người
đau khổ) của Philip Yancey)
Có “bệnh” mà đồng
thời cũng biết “đau” quả là một điều may mắn.
Bác sĩ Paul
Brand là một trong những nhà tiên phong trong việc nghiên cứu và chữa trị bệnh
phung cùi. Sau nhiều năm phục vụ các bệnh nhân phung cùi tại Ấn độ, ông đưa ra
nhận xét rằng những người mắc một số chứng bệnh như tiểu đường và phung cùi có
nguy cơ trầm trọng là mất dần những ngón tay, ngón chân và ngay cả tứ chi chỉ
vì hệ thống báo động về sự đau đớn của họ không còn hoạt động nữa. Họ tự bị hủy
hoại mà không hay biết.
Ông nhận được
tài trợ khoảng vài triệu Mỹ kim để thực hiện một thiết bị giúp cho những người
bị bệnh như thế cảm nhận được “đau đớn” để từ đó có thể phòng ngừa và chữa trị.
Mỗi cái “máy đau” do bác sĩ Brand và nhóm nghiên cứu của ông phát minh giá
không tới 450 Mỹ kim. Tuy nhiên, do hệ thống thần kinh quá phức tạp của con người,
không có chiếc máy nào đã có thể báo được một nỗi đau chính xác. Do đó, sau vài
năm thử nghiệm, cuối cùng bác sĩ Brand đành bỏ cuộc và tuyên bố rằng không có
máy móc nào có thể thay thế cho hệ thống báo động của con người. Theo ông, đau
đớn là điều chẳng ai muốn có. Nhưng chính nhờ biết đau mà chúng ta mới không tự
hủy hoại. Nếu không có một tín hiệu về bệnh tật được phát ra, chúng ta sẽ chẳng
bao giờ để ý đến nó và tìm cách chữa trị. Theo bác sĩ Brand , “đau đớn” là một
món quà!
Phản ứng thông
thường của chúng ta khi gặp đau đớn là tìm cách giảm đau. Ngày nay, Aspirine là
loại thuốc thông dụng nhứt. Hễ cứ nhức đầu, mỏi mệt là người ta uống Aspirine.
Thật ra, giảm đau chỉ là một cách đối đầu với triệu chứng của bệnh tật hơn là
chính bệnh tật. Giảm đau có thể dẫn đến
những hậu quả không lường được. Bob Gross là một trong những danh thủ bóng rổ nổi
tiếng của Mỹ. Ngày nọ, anh cảm thấy đau 3 chỗ trong bàn chân. Biết anh phải
tham dự một trận đấu quan trọng, bác sĩ của đội tiêm cho anh một mũi Marcaine.
Đây là một loại thuốc giảm đau cực mạnh. Gross chạy và tung người lên cao như
thường lệ, cho đến một lúc anh ngã quỵ xuống mà vẫn không thấy đau. Thì ra,
xương bàn chân của anh đã bị mục. Thuốc giảm đau đã giúp anh không còn cảm thấy
đau, nhưng đã hủy hoại bàn chân và cả sự nghiệp của anh.
“Đau” làm cho
tôi khó chịu. Nhưng có lẽ tôi phải cám ơn những cơn đau trong cơ thể tôi, bởi
vì chúng báo động cho tôi biết rằng cơ thể tôi đang gặp nguy hiểm; chúng khởi động
hệ thống miễn nhiễm xung quanh vết thương và buộc tôi phải ngưng những hoạt động
có thể làm cho cơ thể tôi ra yếu nhược hơn. Những cơn đau đòi hỏi tôi phải quan
tâm đến cơ thể tôi và đây là điều tối cần để tôi có thể lành bệnh.
Nói chung, đau đớn,
bệnh tật, khổ đau, mất mát…có thể mang lại sức mạnh cho con người. Một tác giả
nọ đã nghiên cứu về cuộc đời của khoảng 300 nhà lãnh đạo được xem là có ảnh hưởng
lớn trên lịch sử nhân loại. Cuộc nghiên cứu cho thấy rằng sợi chỉ xuyên suốt
qua những cuộc đời ngoại hạng này lại chính là tình trạng “mồ côi” của họ. Nói
chung, những người này đều có một tuổi thơ bất hạnh. Danh sách của những người
mà tác giả cuộc nghiên cứu gọi là “những người mồ côi lãnh đạo thế giới” gồm có
những tên tuổi như Alexandre đại đế, Julius Caesar, Robespierre, Georges
Washington, Napoleon, Nữ hoàng Victoria, nữ thủ tướng Do thái Golda Meir và
ngay cả những đồ tể thế giới như Hitler, Lenin, Stalin và Fides Castro. Sigmund
Freud, cha đẻ của phân tâm học, đã từng nói đến “mặc cảm bù trừ”. Đôi môi dầy của
nữ tài tử Brigitte Bardot có thể là động lực thúc đẩy cô không ngần ngại tỏ ra
táo bạo trong những màn diễn nóng bỏng nhứt, cũng như từ xa xưa, theo suy nghĩ
của triết gia Pháp Blaise Pascal, cái mũi của nữ hoàng Cleopatra có thể ảnh hưởng
đến lịch sử thế giới. Bất hạnh có thể thay đổi vận mệnh con người và thời cuộc
đất nước hay thế giới. Đơn sơ mộc mạc hơn, ông bà chúng ta xếp hạng: “nhứt lé,
nhì lùn, tam hô, tứ sún” hay “có tật có tài”. Phải chăng ông bà chúng ta chẳng
muốn ngụ ý rằng những kẻ đã từng trải qua đau khổ là những kẻ đáng trọng nể hay
đáng sợ.
Tuổi thơ bất hạnh
hay nỗi khổ đau trong những năm tháng đầu đời đã biến thành sức mạnh cho nhiều
người. Điển hình nhứt là trường hợp nhà phát minh lẫy lừng nhứt trong lịch sử
nhân loại là ông Thomas Edison. Có chỉ số thông minh dưới trung bình, sau 3
tháng cắp sách đến trường, Edison bị cho về nhà vì bị xem là “chậm trí”. Do bị
bệnh về đường hô hấp, mãi 2 năm sau, ông mới cắp sách trở lại trường. Hơn nữa,
do bệnh tật, ông lại bị khiếm thính. Ngoài ra, cũng do bệnh tật, Edison trở nên
bướng bỉnh, khó tính. Ông thích chơi với máy móc và lửa đến độ làm cháy cả nhà.
Một con người như thế tưởng chỉ là “đồ bỏ” của xã hội, vậy mà về sau đã trở
thành một nhà phát minh lừng danh nhứt trong lịch sử nhân loại.
Cố mục sư Martin
Luther King, người đã hy sinh mạng sống vì cuộc tranh đấu cho quyền bình đẳng của
người Mỹ gốc Phi Châu đã từng tuyên bố: “Điều gì không hủy diệt được tôi đều
làm cho tôi ra mạnh mẽ hơn.”
Ít nhứt, về nhân
cách, đau khổ làm cho con người mạnh mẽ hơn, bởi vì đau khổ giúp cho con người
phân biệt được giữa những nhu cầu thiết yếu và các thứ xa xí.
Đau khổ khiến
con người không còn tìm kiếm sự an toàn trong của cải vật chất, danh vọng, quyền
lực mà là những giá trị đích thực của cuộc sống.
Nhưng quan trọng
hơn cả, đau khổ, cách riêng đau bệnh, làm cho con người biết cảm thông với người
khác hơn. Không có một trường học nào dạy con người biết cảm thông hơn khổ đau.
Trong một thế giới
mà sự cạnh tranh tiếp tục là phương cách trổi vượt để thiết lập quan hệ giữa
người với người, dù là trong chính trị, thể thao hay kinh tế, thì xem ra sự cảm
thông, nhứt là cảm thông với những người kém may mắn, những người khuyết tật,
người già lão hay bệnh tật xem ra không còn có chỗ đứng nữa. Bất an, lo lắng, dễ
bị tổn thương, chúng ta xem cạnh tranh như luật sinh tồn. Trong bất cứ một cuộc
tranh tài thể thao hay trong bất cứ một cuộc bầu cử nào, kẻ chiến thắng vẫn luôn
được nể trọng và ngưỡng mộ. Trái lại, con người bất lực quằn quại trên giường bệnh
hay bị nghiền nát trong khổ đau ít khi được nhìn nhận và quan tâm tới.
Thế nhưng, khi
cùng mắc một chứng bệnh, cùng phải nằm chung một khu trong bệnh viện, và cùng
phải trải qua các cuộc trị liệu như nhau, người ta mới nhận ra rằng: chẳng ai
còn muốn “cạnh tranh” ở đây nữa. Tất cả đều “bình đẳng” trước bệnh hoạn, người
thành công, giàu có cũng chẳng hơn gì người thất bại, nghèo hèn: ai cũng đau đớn,
ai cũng phải trải qua trị liệu, ai cũng phải uống đủ thứ thuốc, ai cũng thấy cô
đơn, hoang mang…Những cảm giác này, người thân khỏe mạnh có muốn chia sẻ cũng
không được.
Trước đây, khi
chưa bị bệnh, tôi cũng vậy. Tôi thờ ơ nghe người khác tỉ mỉ tả về những sự đau
đớn của họ và tự hỏi: sao họ lại nhớ “dai” những gì liên quan đến căn bệnh như thế ? Giờ
đây, tôi hiểu tại sao, bởi vì khi tôi bệnh thì chẳng còn cái gì trên đời này
quan trọng hơn căn bệnh của tôi.
Cám ơn Bệnh, nếu không có ngươi, làm sao tôi
có thể thực sự cảm thông với các bệnh nhân và có dịp nằm “ẹp” một chỗ, thấm
thía rằng chẳng có gì quí hơn sức khỏe.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét