Chu Thập, 16.8.2010
Có người thích đồ
cổ. Riêng tôi chỉ thích sưu tầm các thứ rau và cây trái của quê hương. Ngoài một
ô nhỏ được khoanh vùng để “nhét” vào đủ các loại rau của vùng nhiệt đới, tôi
còn có cả một mảnh vườn mà tôi gọi là “quê hương bỏ túi”. Có trái hay không, có
chịu đựng nổi mùa Đông của Úc hay không, tôi không cần biết, miễn là có chút
giây mơ rễ má với cây trái của Việt nam là tôi dành cho một chỗ đứng. Gần đây,
tiếc một ít đất không được canh tác, tôi bèn “dậm” thêm một ít giây lang. Lang
là loại giây có củ thích nghi dễ dàng với đất đai và khí hậu Úc: quanh năm ngày
tháng lúc nào lá cũng xanh và nhứt là lúc nào cũng có đọt non. Thỉnh thoảng, được
thưởng thức một bữa cơm với đọt lang luộc chấm với mắm nêm, đi kèm với một miếng
cá kho, tôi thấy chẳng có “bữa tiệc” nào “sang” hơn.
Nhưng mới đây, mấy
con “possums” lại cho tôi được thưởng thức thêm một món ăn khác dành cho những
người “khoái ăn sang” (sáng ăn
khoai). Cái giống chuột khổng lồ “sống về đêm” này lâu nay chỉ biết sống bằng
lá cây rừng đặc sản của Úc, bỗng dưng khám phá được hương vị “ngoại lai” của
rau lang.Thế là chỉ trong một đêm chúng càn quét và làm sạch cái đám rau lang của
tôi. Nhưng cũng nhờ vậy mà tôi mới biết rằng giây lang của tôi có củ. Trước
đây, tôi cứ yên trí là hễ ăn đọt thì lang không sanh củ. Chỉ cần lấy tay moi qua
loa, tôi cũng kiếm được vài ký khoai lang củ nào củ nấy to tổ chảng. Có một buổi
chiều, thay cho bữa cơm, tôi ngốn đến mấy củ khoai luộc. Nó mới ngon làm sao!
Thưởng thức mấy
củ khoai luộc do “công lao mồ hôi nước mắt” của mình làm ra, tôi không thể không
nhớ đến cái “triết lý củ khoai” của
nhà văn Tràm Cà Mau. Ông giải thích như sau: “Khi lớn lên, được đọc Kinh Phật, Kinh Thánh và nhiều sách triết lý Âu Á
như Khổng, Lão, Trang… và luôn cả kinh Coran và kinh đạo Bahai nữa, thì tôi tìm
cho tôi được một triết lý đơn sơ, mộc mạc, là cái món hổ lốn vắt ra từ tinh túy
của các triết lý khác. Tôi tạm gọi là “Triết lý Củ Khoai”. Vì nó đơn sơ như củ
khoai, rẻ tiền, mộc mạc và dễ tìm thấy như củ khoai trong đời này. Triết lý đó
được đơm gọn lại trong một câu ngắn ngủi: “Nếu chỉ có một củ khoai thôi, thì
hãy nướng nó cho thật thơm mà đớp.” Ý nghĩa của câu đó cũ mèm, hình như ai cũng
biết và có nhiều câu nói tương tự. Cái triết lý đơn giản này giúp tôi thấy được
rằng hạnh phúc là cái rất cụ thể, rất gần gũi, bất cứ ai và bất cứ lúc nào cũng
có thể tìm được hạnh phúc rất dễ dàng. Ai cho rằng hạnh phúc là cái xa vời, thì
vì họ chưa nắm hết phần tinh túy của các triết lý khác hoặc chưa từng nghe một
phần của triết lý củ khoai. Nhiều sách vở khác cũng có nói đến, nhưng người đọc
vô tình hoặc cố ý làm ngơ, hoặc biết rất rõ nhưng chẳng bao giờ thực hành.” (Nguyễn
Mộng Giác, Bạn Văn Một Thuở, Văn Mới, California, Hoa kỳ 2005, trg.198)
Ông Tràm Cà Mau
nói đến đủ cách “nướng khoai cho thật thơm”. Với tôi, chỉ cần luộc lên là đủ. Đủ
để thưởng thức cái hương vị đậm đà quê hương và có được niềm hạnh phúc từ cuộc
sống thanh đạm.
Muốn có hạnh
phúc hãy sống thanh đạm. Đó là lời khuyên mà các nhà hiền triết ở bất cứ thời đại
nào và thuộc bất cứ nền văn hóa nào cũng đều để lại. Thời trung học, nghe ông
Nguyễn Khuyến tả cái cảnh “ao thu lạnh lẽo
nước trong veo, một chiếc thuyền câu bé tẻo teo” tôi đã thấy thích điên rồi.
Tôi lại càng thấy thèm cách sống của ông Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Một mai một cuốc một cần câu.” Hay “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ, người khôn người
đến chốn lao xao.” Ai mà chẳng “ham” cái khung cảnh thôn dã thanh bình và
cuộc sống thanh đạm.
Mở mắt thêm một
chút, tiếp cận với triết lý Tây phương, tôi lại càng “mê” cái tính ngông triệt
để của nhà hiền triết Hy lạp Diogenes qua đời vào thế kỷ thứ tư trước Công
nguyên. Ông ngông đến độ đốt đuốc giữa ban ngày để gọi là đi tìm một người
thanh liêm chính trực. Ông ngông đến độ từ bỏ hết mọi của cải, dùng một cái
thùng gỗ làm nơi cư trú và chỉ sử dụng một cái gáo để ăn uống; nhưng một hôm thấy
một cậu bé chăn cừu lấy hai tay bụm lại để múc nước từ một giòng sông, ông cũng
quăng luôn cái gáo của mình. Với cuộc sống thanh đạm “cực đoan” ấy, nhà hiền
triết này dạy cho các môn đệ của ông rằng sự phát triển giả tạo của xã hội
không phù hợp với hạnh phúc đích thực của con người. Theo ông, muốn sống đức hạnh
và hạnh phúc con người phải trở về cuộc sống đơn giản.
Ông Tràm Cà Mau
hẳn không thể không nghĩ đến cuộc sống ngông cuồng dễ thương của nhà hiền triết
này khi quảng bá cái “triết lý củ khoai” của
ông.
Mới đây, tôi lại
thấy cái “triết lý củ khoai” của ông
Tràm Cà Mau cũng được một người Mỹ chính hiệu “minh họa” trong một bài viết được
đăng trên báo The New York Times trong số ra ngày 7/8/ 2010. Ký giả
Stephanie Rosenbloom kể lại câu chuyện của một cặp vợ chồng trẻ Mỹ nọ đang sống
một cuộc sống tương đối trung lưu, nhưng do đọc được một số sách vở nói về cuộc
“sống đơn giản”, đã mang đồ đạc trong nhà tặng cho các tổ chức bác ái. Ngay cả
hai chiếc xe, họ cũng đem hiến tặng. Riêng người vợ cố gắng dọn sạch cái tủ quần
áo cũng như mọi thứ không cần thiết trong nhà vệ sinh. Người mẹ gọi điện thoại
đến cho con gái và trách móc tại sao “nông nổi” như thế.
Hiện nay, người
chồng đang chuẩn bị tốt nghiệp tiến sĩ về sinh lý học. Người vợ ở nhà làm ký giả
tự do. Tiền lương 24 ngàn Mỹ kim một năm của cô vừa đủ để trả các thứ hóa đơn.
Điều làm cho họ cảm thấy nhẹ nhõm nhứt là mỗi năm họ không còn phải trả một món
nợ đến 30 ngàn Mỹ kim nữa. Họ còn có dư tiền để đi du lịch và đóng góp vào quỹ
giáo dục của các cháu. Vì không phải trả nợ cho nên người vợ không phải làm việc
nhiều. Nhờ đó, mỗi tuần cô có thể bỏ ra 4 tiếng đồng hồ để làm thiện nguyện cho
một chương trình giáo dục phi lợi nhuận.
Người vợ giải
thích về cuộc sống đơn giản của họ như sau: “Cho rằng cần phải có nhiều hơn mới được hạnh phúc là một điều sai lầm.
Tôi tin rằng có nhiều của cải vật chất không mang lại hạnh phúc.”
Cặp vợ chồng trẻ
này trong khi quăng bớt những vật chất không cần thiết, vô tình, họ cũng “quẳng gánh lo đi và vui sống.”
Không biết có chịu
ảnh hưởng của cái “triết lý củ khoai”
của ông Tràm Cà Mau không, mà mới đây những nhà tài phiệt tại Hoa kỳ lại thi
đua nhau hiến tặng tài sản của mình. Người ta không chỉ biết Bill Gates như người
đã có một thời là người giàu nhứt hành tinh. Tên tuổi của ông và vợ cũng gắn liền
với Quỹ Từ Thiện “Bill & Melinda
Gates Foundation” chuyên tài trợ cho những dự án giáo dục quan trọng trên thế
giới, kể cả nỗ lực tận diệt bệnh sốt rét. Với tài sản 53 tỷ Mỹ kim, ông bà
Gates dành cho việc từ thiện đến hơn phân nửa, 28 tỷ Mỹ kim.
Nhưng có lẽ đáng
“nể” hơn phải kể đến tên tuổi của nhà tài phiệt bất động sản Warren Buffet. Ông
này đã có lần qua mặt ông Gates về sự giàu có. Nhưng danh tiếng của ông được biết
đến nhiều hơn khi ông trao tặng 99 phần trăm tài sản của mình cho Sáng hội “Bill
& Melinda Gates”. Ông nói rằng đã giàu như ông thì có thêm hay bớt vài chục
tỷ Mỹ kim cũng chẳng có ý nghĩa gì cả. Tôi thực tâm khâm phục ông, thông thường,
với chín trăm đồng, ai cũng muốn làm “tròn” thành một nghìn chứ chẳng ai muốn
trở lại cái thời chỉ vỏn vẹn tờ năm đồng trong túi.
Ông Ted Turner,
người sáng lập ra đài truyền hình CNN, cũng đã trao cho Liên Hiệp Quốc một tỷ Mỹ
kim để thành lập Sáng Hội Liên Hiệp Quốc. Mới đây, ông lại tặng thêm 900 triệu
Mỹ kim nữa.
Dạo tháng 6 vừa
qua, hai ông Gates và Buffet đã mời các ông bà tỷ phú Hoa kỳ đến tham dự một bữa
ăn, trong đó họ được thuyết phục tham gia vào điều được gọi là “The Giving
Pledge”, tức lời hứa công khai trên danh dự sẽ cho đi ít nhứt một nửa tài sản của
mình khi còn sống hay sau khi qua đời. Theo tạp chí Forbes, Hoa kỳ hiện đang có
403 tỷ phú. Đã có 38 người công khai ký tên vào lời Hứa Danh Dự trên đây.
Có lẽ ai cũng có
thể sống đơn giản, nhưng sống đơn giản để “trao tặng” cho người khác mới là điều
khó. Thiếu gì người như nhân vật “Harpagon”
trong vở kịch “L’Avare” (Người Hà Tiện)
của kịch tác gia Pháp Molière, sẵn sàng sống đơn giản chỉ để ôm lấy túi tiền của
mình.
Có lẽ vừa muốn sống
theo cái “triết lý củ khoai” của Tràm
Cà Mau, vừa nhận ra rằng cho đi mới thực sự là hạnh phúc cho nên mới đây một
triệu phú tại một xã hội “duy vật” như Trung Quốc tên là Yu Pengnian đã hiến tặng
500 triệu Mỹ kim cho một tổ chức từ thiện do ông thành lập cách đây 5 năm để hỗ
trợ cho việc cấp học bổng cho sinh viên, trả chi phí giải phẫu cho các bệnh
nhân nghèo và tái thiết Tứ Xuyên sau trận động đất năm 2008. Tính chung, ông Yu
là người Trung quốc đầu tiên đã hiến tặng 1 tỷ Mỹ kim cho công cuộc từ thiện.
Ông Yu cho biết:
làm từ thiện là kết quả của nguồn gốc đói nghèo của chính mình. Sinh ra tại một
ngôi làng nhỏ ở tỉnh Hồ Nam, miền Nam Trung Quốc, ông tới Thượng hải từ thuở
còn là thanh niên với hy vọng tìm được vận may. Nhưng không, ông đã trở thành
người kéo xe và bán nữ trang rẻ tiền trên hè phố cho đến khi ông bị bắt vào năm
1954, vì bị cáo buộc thuộc giai cấp địa chủ. Ông bị chế độ Cộng sản kết án 3
năm tù. Sau khi được trả tự do, ông tìm đường sang Hong Kong. Mặc dù không biết
tiếng Anh và cũng chẳng nói được tiếng Quảng Đông, từ việc lau dọn tại một công
ty, ông đã từ từ ngoi lên đến vị trí quản lý cấp thấp và chắt chiu dành dụm để
rồi cuối cùng trong thập niên 60 cùng với một số bạn bè góp tiền mua bán bất động
sản và trở nên giàu có.
Chúa Giêsu dạy:
“Cho thì có phúc hơn nhận lãnh”.Không
rõ có đọc Kinh Thánh không, ông Yu cũng nói: “Hiến tặng tiền của làm cho tôi hạnh phúc.” (x. Mark Mackinnon, bản
dịch của Trà Mi, Đàn Chim Việt online 7/2010)
Sống trong một
xã hội dư dật như Úc Đại Lợi, đối với tôi, khoai lang quả là một thứ “xa xí”.
Xa xí không phải vì hiếm. Ngày nay, khoai lang được bày bán ê hề và giá có thể
chỉ một đô la cho một ký. Xa xí là bởi vì nó có thể gợi lại cho tôi những bữa
ăn không chỉ thanh đạm mà còn là “nghèo cùng” ở Việt nam thời thiên đàng xã hội
chủ nghĩa vừa mới được áp đặt trên quê hương. Xa xí là bởi có nhớ đến cái nguồn
gốc “chân đóng phèn” ấy, tôi mới có thể cảm thông được với cuộc sống nghèo của
không biết bao nhiều người mỗi tối vẫn còn đi ngủ với cái bụng trống không.
Không đủ can đảm
để tự “trấn lột” như nhà hiền triết Diogenes, cũng chẳng có điều kiện để được
ngồi trên chiếc thuyền câu trong cái ao trong vắt như ông Nguyễn Khuyến hay
ngày nào cũng “mai, cuốc và cần câu” như ông Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhưng một vài cố
gắng sống thanh đạm hằng ngày cũng cho tôi cảm nếm được niềm hạnh phúc luôn có
sẵn trong cuộc sống.
Dù chưa từng trải
qua một cuộc sống dư giả, nhưng ít ra tôi vẫn chưa bao giờ thấy phẩm giá của
mình bị hạ thấp. Nhưng nhìn cảnh những nạn nhân thiên tai đói đến độ phải chà đạp,
giành giựt nhau để có được chút vật phẩm cứu trợ, tôi thấy không có gì khổ hơn.
Hình ảnh những trẻ thơ, cụ già yếu sức bị đẩy ra run rẩy vì đói, nước mắt doanh
tròng giúp tôi tìm ra động lực mạnh mẽ của “triết
lý củ khoai”: Nếu họ được trao tặng một củ khoai ngay bây giờ, trong cơn bĩ
cực, họ cũng sẽ có được một chút hạnh phúc. Thời đại toàn cầu, chỉ cần vài cái
“nhấp chuột” trên máy vi tính là tôi đã
có thể “góp một bàn tay” chia sẻ với
nạn nhân của thiên tai và nghèo đói ở bất cứ nơi nào trên trái đất. Xin cám ơn World Vision, Plan Australia, Hội Hồng Thập
Tự, Hội Y Sĩ Không Biên Giới, Caritas…tất
cả đã và đang làm cánh tay nối dài giúp một người tầm thường vô danh như tôi có
được cơ hội làm “người ôm nhân loại”
vào lòng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét