Thứ Hai, 25 tháng 8, 2014

Triết Lý Củ Khoai



                                                                                Chu Thập, 16.8.2010

Có người thích đồ cổ. Riêng tôi chỉ thích sưu tầm các thứ rau và cây trái của quê hương. Ngoài một ô nhỏ được khoanh vùng để “nhét” vào đủ các loại rau của vùng nhiệt đới, tôi còn có cả một mảnh vườn mà tôi gọi là “quê hương bỏ túi”. Có trái hay không, có chịu đựng nổi mùa Đông của Úc hay không, tôi không cần biết, miễn là có chút giây mơ rễ má với cây trái của Việt nam là tôi dành cho một chỗ đứng. Gần đây, tiếc một ít đất không được canh tác, tôi bèn “dậm” thêm một ít giây lang. Lang là loại giây có củ thích nghi dễ dàng với đất đai và khí hậu Úc: quanh năm ngày tháng lúc nào lá cũng xanh và nhứt là lúc nào cũng có đọt non. Thỉnh thoảng, được thưởng thức một bữa cơm với đọt lang luộc chấm với mắm nêm, đi kèm với một miếng cá kho, tôi thấy chẳng có “bữa tiệc” nào “sang” hơn.
Nhưng mới đây, mấy con “possums” lại cho tôi được thưởng thức thêm một món ăn khác dành cho những người “khoái ăn sang” (sáng ăn khoai). Cái giống chuột khổng lồ “sống về đêm” này lâu nay chỉ biết sống bằng lá cây rừng đặc sản của Úc, bỗng dưng khám phá được hương vị “ngoại lai” của rau lang.Thế là chỉ trong một đêm chúng càn quét và làm sạch cái đám rau lang của tôi. Nhưng cũng nhờ vậy mà tôi mới biết rằng giây lang của tôi có củ. Trước đây, tôi cứ yên trí là hễ ăn đọt thì lang không sanh củ. Chỉ cần lấy tay moi qua loa, tôi cũng kiếm được vài ký khoai lang củ nào củ nấy to tổ chảng. Có một buổi chiều, thay cho bữa cơm, tôi ngốn đến mấy củ khoai luộc. Nó mới ngon làm sao!
Thưởng thức mấy củ khoai luộc do “công lao mồ hôi nước mắt” của mình làm ra, tôi không thể không nhớ đến cái “triết lý củ khoai” của nhà văn Tràm Cà Mau. Ông giải thích như sau: “Khi lớn lên, được đọc Kinh Phật, Kinh Thánh và nhiều sách triết lý Âu Á như Khổng, Lão, Trang… và luôn cả kinh Coran và kinh đạo Bahai nữa, thì tôi tìm cho tôi được một triết lý đơn sơ, mộc mạc, là cái món hổ lốn vắt ra từ tinh túy của các triết lý khác. Tôi tạm gọi là “Triết lý Củ Khoai”. Vì nó đơn sơ như củ khoai, rẻ tiền, mộc mạc và dễ tìm thấy như củ khoai trong đời này. Triết lý đó được đơm gọn lại trong một câu ngắn ngủi: “Nếu chỉ có một củ khoai thôi, thì hãy nướng nó cho thật thơm mà đớp.” Ý nghĩa của câu đó cũ mèm, hình như ai cũng biết và có nhiều câu nói tương tự. Cái triết lý đơn giản này giúp tôi thấy được rằng hạnh phúc là cái rất cụ thể, rất gần gũi, bất cứ ai và bất cứ lúc nào cũng có thể tìm được hạnh phúc rất dễ dàng. Ai cho rằng hạnh phúc là cái xa vời, thì vì họ chưa nắm hết phần tinh túy của các triết lý khác hoặc chưa từng nghe một phần của triết lý củ khoai. Nhiều sách vở khác cũng có nói đến, nhưng người đọc vô tình hoặc cố ý làm ngơ, hoặc biết rất rõ nhưng chẳng bao giờ thực hành.” (Nguyễn Mộng Giác, Bạn Văn Một Thuở, Văn Mới, California, Hoa kỳ 2005, trg.198)
Ông Tràm Cà Mau nói đến đủ cách “nướng khoai cho thật thơm”. Với tôi, chỉ cần luộc lên là đủ. Đủ để thưởng thức cái hương vị đậm đà quê hương và có được niềm hạnh phúc từ cuộc sống thanh đạm.
Muốn có hạnh phúc hãy sống thanh đạm. Đó là lời khuyên mà các nhà hiền triết ở bất cứ thời đại nào và thuộc bất cứ nền văn hóa nào cũng đều để lại. Thời trung học, nghe ông Nguyễn Khuyến tả cái cảnh “ao thu lạnh lẽo nước trong veo, một chiếc thuyền câu bé tẻo teo” tôi đã thấy thích điên rồi. Tôi lại càng thấy thèm cách sống của ông Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Một mai một cuốc một cần câu.” Hay “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ, người khôn người đến chốn lao xao.” Ai mà chẳng “ham” cái khung cảnh thôn dã thanh bình và cuộc sống thanh đạm.
Mở mắt thêm một chút, tiếp cận với triết lý Tây phương, tôi lại càng “mê” cái tính ngông triệt để của nhà hiền triết Hy lạp Diogenes qua đời vào thế kỷ thứ tư trước Công nguyên. Ông ngông đến độ đốt đuốc giữa ban ngày để gọi là đi tìm một người thanh liêm chính trực. Ông ngông đến độ từ bỏ hết mọi của cải, dùng một cái thùng gỗ làm nơi cư trú và chỉ sử dụng một cái gáo để ăn uống; nhưng một hôm thấy một cậu bé chăn cừu lấy hai tay bụm lại để múc nước từ một giòng sông, ông cũng quăng luôn cái gáo của mình. Với cuộc sống thanh đạm “cực đoan” ấy, nhà hiền triết này dạy cho các môn đệ của ông rằng sự phát triển giả tạo của xã hội không phù hợp với hạnh phúc đích thực của con người. Theo ông, muốn sống đức hạnh và hạnh phúc con người phải trở về cuộc sống đơn giản.
Ông Tràm Cà Mau hẳn không thể không nghĩ đến cuộc sống ngông cuồng dễ thương của nhà hiền triết này khi quảng bá cái “triết lý củ khoai” của ông.
Mới đây, tôi lại thấy cái “triết lý củ khoai” của ông Tràm Cà Mau cũng được một người Mỹ chính hiệu “minh họa” trong một bài viết được đăng trên báo The New York Times trong số ra ngày 7/8/ 2010. Ký giả Stephanie Rosenbloom kể lại câu chuyện của một cặp vợ chồng trẻ Mỹ nọ đang sống một cuộc sống tương đối trung lưu, nhưng do đọc được một số sách vở nói về cuộc “sống đơn giản”, đã mang đồ đạc trong nhà tặng cho các tổ chức bác ái. Ngay cả hai chiếc xe, họ cũng đem hiến tặng. Riêng người vợ cố gắng dọn sạch cái tủ quần áo cũng như mọi thứ không cần thiết trong nhà vệ sinh. Người mẹ gọi điện thoại đến cho con gái và trách móc tại sao “nông nổi” như thế.
Hiện nay, người chồng đang chuẩn bị tốt nghiệp tiến sĩ về sinh lý học. Người vợ ở nhà làm ký giả tự do. Tiền lương 24 ngàn Mỹ kim một năm của cô vừa đủ để trả các thứ hóa đơn. Điều làm cho họ cảm thấy nhẹ nhõm nhứt là mỗi năm họ không còn phải trả một món nợ đến 30 ngàn Mỹ kim nữa. Họ còn có dư tiền để đi du lịch và đóng góp vào quỹ giáo dục của các cháu. Vì không phải trả nợ cho nên người vợ không phải làm việc nhiều. Nhờ đó, mỗi tuần cô có thể bỏ ra 4 tiếng đồng hồ để làm thiện nguyện cho một chương trình giáo dục phi lợi nhuận.
Người vợ giải thích về cuộc sống đơn giản của họ như sau: “Cho rằng cần phải có nhiều hơn mới được hạnh phúc là một điều sai lầm. Tôi tin rằng có nhiều của cải vật chất không mang lại hạnh phúc.”
Cặp vợ chồng trẻ này trong khi quăng bớt những vật chất không cần thiết, vô tình, họ cũng “quẳng gánh lo đi và vui sống.”
Không biết có chịu ảnh hưởng của cái “triết lý củ khoai” của ông Tràm Cà Mau không, mà mới đây những nhà tài phiệt tại Hoa kỳ lại thi đua nhau hiến tặng tài sản của mình. Người ta không chỉ biết Bill Gates như người đã có một thời là người giàu nhứt hành tinh. Tên tuổi của ông và vợ cũng gắn liền với  Quỹ Từ Thiện “Bill & Melinda Gates Foundation” chuyên tài trợ cho những dự án giáo dục quan trọng trên thế giới, kể cả nỗ lực tận diệt bệnh sốt rét. Với tài sản 53 tỷ Mỹ kim, ông bà Gates dành cho việc từ thiện đến hơn phân nửa, 28 tỷ Mỹ kim.
Nhưng có lẽ đáng “nể” hơn phải kể đến tên tuổi của nhà tài phiệt bất động sản Warren Buffet. Ông này đã có lần qua mặt ông Gates về sự giàu có. Nhưng danh tiếng của ông được biết đến nhiều hơn khi ông trao tặng 99 phần trăm tài sản của mình cho Sáng hội “Bill & Melinda Gates”. Ông nói rằng đã giàu như ông thì có thêm hay bớt vài chục tỷ Mỹ kim cũng chẳng có ý nghĩa gì cả. Tôi thực tâm khâm phục ông, thông thường, với chín trăm đồng, ai cũng muốn làm “tròn” thành một nghìn chứ chẳng ai muốn trở lại cái thời chỉ vỏn vẹn tờ năm đồng trong túi.
Ông Ted Turner, người sáng lập ra đài truyền hình CNN, cũng đã trao cho Liên Hiệp Quốc một tỷ Mỹ kim để thành lập Sáng Hội Liên Hiệp Quốc. Mới đây, ông lại tặng thêm 900 triệu Mỹ kim nữa.
Dạo tháng 6 vừa qua, hai ông Gates và Buffet đã mời các ông bà tỷ phú Hoa kỳ đến tham dự một bữa ăn, trong đó họ được thuyết phục tham gia vào điều được gọi là “The Giving Pledge”, tức lời hứa công khai trên danh dự sẽ cho đi ít nhứt một nửa tài sản của mình khi còn sống hay sau khi qua đời. Theo tạp chí Forbes, Hoa kỳ hiện đang có 403 tỷ phú. Đã có 38 người công khai ký tên vào lời Hứa Danh Dự trên đây.
Có lẽ ai cũng có thể sống đơn giản, nhưng sống đơn giản để “trao tặng” cho người khác mới là điều khó. Thiếu gì người như nhân vật “Harpagon” trong vở kịch “L’Avare” (Người Hà Tiện) của kịch tác gia Pháp Molière, sẵn sàng sống đơn giản chỉ để ôm lấy túi tiền của mình.
Có lẽ vừa muốn sống theo cái “triết lý củ khoai” của Tràm Cà Mau, vừa nhận ra rằng cho đi mới thực sự là hạnh phúc cho nên mới đây một triệu phú tại một xã hội “duy vật” như Trung Quốc tên là Yu Pengnian đã hiến tặng 500 triệu Mỹ kim cho một tổ chức từ thiện do ông thành lập cách đây 5 năm để hỗ trợ cho việc cấp học bổng cho sinh viên, trả chi phí giải phẫu cho các bệnh nhân nghèo và tái thiết Tứ Xuyên sau trận động đất năm 2008. Tính chung, ông Yu là người Trung quốc đầu tiên đã hiến tặng 1 tỷ Mỹ kim cho công cuộc từ thiện.
Ông Yu cho biết: làm từ thiện là kết quả của nguồn gốc đói nghèo của chính mình. Sinh ra tại một ngôi làng nhỏ ở tỉnh Hồ Nam, miền Nam Trung Quốc, ông tới Thượng hải từ thuở còn là thanh niên với hy vọng tìm được vận may. Nhưng không, ông đã trở thành người kéo xe và bán nữ trang rẻ tiền trên hè phố cho đến khi ông bị bắt vào năm 1954, vì bị cáo buộc thuộc giai cấp địa chủ. Ông bị chế độ Cộng sản kết án 3 năm tù. Sau khi được trả tự do, ông tìm đường sang Hong Kong. Mặc dù không biết tiếng Anh và cũng chẳng nói được tiếng Quảng Đông, từ việc lau dọn tại một công ty, ông đã từ từ ngoi lên đến vị trí quản lý cấp thấp và chắt chiu dành dụm để rồi cuối cùng trong thập niên 60 cùng với một số bạn bè góp tiền mua bán bất động sản và trở nên giàu có.
Chúa Giêsu dạy: “Cho thì có phúc hơn nhận lãnh”.Không rõ có đọc Kinh Thánh không, ông Yu cũng nói: “Hiến tặng tiền của làm cho tôi hạnh phúc.” (x. Mark Mackinnon, bản dịch của Trà Mi, Đàn Chim Việt online 7/2010)
Sống trong một xã hội dư dật như Úc Đại Lợi, đối với tôi, khoai lang quả là một thứ “xa xí”. Xa xí không phải vì hiếm. Ngày nay, khoai lang được bày bán ê hề và giá có thể chỉ một đô la cho một ký. Xa xí là bởi vì nó có thể gợi lại cho tôi những bữa ăn không chỉ thanh đạm mà còn là “nghèo cùng” ở Việt nam thời thiên đàng xã hội chủ nghĩa vừa mới được áp đặt trên quê hương. Xa xí là bởi có nhớ đến cái nguồn gốc “chân đóng phèn” ấy, tôi mới có thể cảm thông được với cuộc sống nghèo của không biết bao nhiều người mỗi tối vẫn còn đi ngủ với cái bụng trống không.
Không đủ can đảm để tự “trấn lột” như nhà hiền triết Diogenes, cũng chẳng có điều kiện để được ngồi trên chiếc thuyền câu trong cái ao trong vắt như ông Nguyễn Khuyến hay ngày nào cũng “mai, cuốc và cần câu” như ông Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhưng một vài cố gắng sống thanh đạm hằng ngày cũng cho tôi cảm nếm được niềm hạnh phúc luôn có sẵn trong cuộc sống.
Dù chưa từng trải qua một cuộc sống dư giả, nhưng ít ra tôi vẫn chưa bao giờ thấy phẩm giá của mình bị hạ thấp. Nhưng nhìn cảnh những nạn nhân thiên tai đói đến độ phải chà đạp, giành giựt nhau để có được chút vật phẩm cứu trợ, tôi thấy không có gì khổ hơn. Hình ảnh những trẻ thơ, cụ già yếu sức bị đẩy ra run rẩy vì đói, nước mắt doanh tròng giúp tôi tìm ra động lực mạnh mẽ của “triết lý củ khoai”: Nếu họ được trao tặng một củ khoai ngay bây giờ, trong cơn bĩ cực, họ cũng sẽ có được một chút hạnh phúc. Thời đại toàn cầu, chỉ cần vài cái “nhấp chuột” trên máy vi tính  là tôi đã có thể “góp một bàn tay” chia sẻ với nạn nhân của thiên tai và nghèo đói ở bất cứ nơi nào trên trái đất. Xin cám ơn World Vision, Plan Australia, Hội Hồng Thập Tự, Hội Y Sĩ  Không Biên Giới, Caritas…tất cả đã và đang làm cánh tay nối dài giúp một người tầm thường vô danh như tôi có được cơ hội làm “người ôm nhân loại” vào lòng.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét