ChuThập, 22.3.2010
.jpg)
Thời trung học,
khi dẫn giải về thời kỳ Văn Nghệ Phục Hưng tại Âu Châu, giáo sư Pháp văn cho
chúng tôi chiêm ngắm chân dung của người thiếu phụ trong bức tranh “La Joconde”
nổi tiếng của danh họa Leonardo da Vinci. Kể từ đó, nụ cười “huyền bí” của nàng
Mona Lisa đã mê hoặc tôi. Lạ thật, ở tuổi nào, tôi cũng vẫn cảm thấy bị thu hút
bởi những phụ nữ có nụ cười “Mona Lisa”.
Có những nụ cười
khác tuy không “huyền bí” và quyến rũ như nàng Mona Lisa nhưng vẫn thu hút và
gây ấn tượng “vĩnh viễn” nơi tôi. Chẳng hạn, mỗi lần nghĩ đến đức Đạt Lai Lạt
Ma, vị thủ lãnh tinh thần của Tây Tạng, thì tức khắc, nụ cười của Từ Bi, Nhẫn
Nhục, Cảm Thông, Tha Thứ hiện ra. Đi tìm hiện thân của Bác Ái và Yêu Thương
trong Kitô giáo, tôi không thể không nhớ đến nụ cười của Đức Gioan Phaolo đệ Nhứt,
người chỉ làm giáo hoàng đúng 33 ngày hay nụ cười trên gương mặt nhăn nheo của
Mẹ Têrêxa Calcutta.
Lúc gần đây, tôi
lại “thu lượm” được thêm ít nhứt hai nụ cười đáng giá vào “album sưu tập nụ cười”
của tôi.
Trước hết là nụ
cười rạng rỡ của thi sĩ Nguyễn Hữu Loan, tác giả của bài thơ bất hủ “màu tím hoa sim”. Báo chí Việt nam hải
ngoại đã viết nhiều về sự ra đi của ông. Riêng
báo Người Việt on line số ra ngày 18 tháng 3 vừa qua, kèm với bản tin,
có đăng bức chân dung của nhà thơ này chụp tại Thanh Hóa khi ông gần tuổi 95, với nụ cười rạng rỡ, mãn nguyện của một
con người suốt một đời đấu tranh. Bài báo viết: “Từ làm ruộng, kéo xe cút kít, vác đá, mò cua bắt ốc để mưu sinh, suốt một
chặng đường dài bề ngoài là âm thầm nhưng thật sự là cuộc đấu tranh, đấu trí
không ngừng nghỉ giữa ông và chế độ độc tài đảng trị mà ông chạy trốn, được ông
kể lại sau này.”
Năm 2004, trong
một bài phỏng vấn dành cho chương trình Việt ngữ của Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ, ông
nói: “Tôi theo dõi những cái tình hình
chung của đất nước bây giờ là lừa đảo rối bét, ăn tham, bẩn nhất là thằng nào
cũng lợi dụng trèo đầu cỡi cổ thằng dân chứ có cái gì đâu, tức là cái đảng Cộng
Sản đấy. Cái đảng Cộng Sản mà còn lãnh đạo thì còn rối bét, không có ai là
gương mẫu hết” (trích dẫn trên báo Người Việt on line)
Trong một lần tiếp
khách, ông kể: “Trong mấy chục năm dài,
tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem
về đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu,
lâu lâu nổi hứng thì làm thơ, thế mà chúng vẫn trù dập, không để tôi yên.Tới hồi
mới mở cửa, tôi được ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm gia nhập
làm gì” (báo đã dẫn)
Cả một cuộc đời
bị trù dập, nhưng thi sĩ Nguyễn Hữu Loan vẫn tỏ rõ khí phách của một cây sậy, bị
bão tố cộng sản độc tài đè bẹp, nhưng ông vẫn tiếp tục đứng thẳng lên để, không
vì một chút bã quyền lực, lợi lộc, mà uốn cong ngòi bút và bóp nghẹt tiếng nói của
lương tâm.
Trong bài thơ “Cũng những Thằng Nịnh hót” được ông
sáng tác năm 1956, thi sĩ Nguyễn Hữu Loan đã khẳng khái tuyên bố:
Là
người, chúng ta
Không ai biết
Cúi đầu…
(Trích trong “Trăm
Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc, Mặt trận văn
hóa, Sài Gòn 1959)
Không “cúi đầu” trước bạo quyền, cả cuộc đời của
tác giả “Màu Tím Hoa Sim” không chỉ là một cuộc đấu tranh chống lại chế độ độc
tài, mà còn là một chiến giữ Thiện và Ác, giữa Lẽ Phải và Gian Tà, giữa Lương
Tri và Dối Trá.
Nụ cười của ông,
cụ già râu tóc bạc phơ, quả là nụ cười của chiến thắng. Đó là sự chiến thắng của
một con người đã chạy cho đến cùng đích của cuộc đời mà vẫn “đứng thẳng” như một
con người, chứ không làm loài thú bò sát trong bùn nhơ của quyền lực, của cải,
danh vọng. Với một “nhân đức anh hùng”
như thế, thi sĩ Nguyễn Hữu Loan đã được tôi “phong thánh” và sống mãi trong tôi với nụ cười chiến thắng ấy.
Cùng với thi sĩ
Nguyễn Hữu Loan, gần đây, nụ cười của linh mục Nguyễn văn Lý, người tù nhân
lương tâm vừa ra khỏi nhà tù nhỏ đến bước vào nhà tù lớn cũng tạo ra cho tôi một
tâm tình khó tả.Đây là lần đầu tiên tôi thấy vị linh mục này cười và cười…thật
nhiều. Cùng với bản tin về việc ông được đưa về nhà hưu dưỡng các linh mục tại
tòa Tổng giám mục Huế để chữa trị, tất cả báo chí của người Việt nam ở hải ngoại
đều đăng tải những bức hình với nụ cười rạng rỡ của ông.
Linh mục Nguyễn
văn Lý có đủ mọi lý do để tươi cười. Một ngày trong tù bằng cả ngàn ngày ở
ngoài. Có tù nhân nào mà không vui khi được ra tù, dù chỉ là ra khỏi tù nhỏ để
vào nhà tù lớn hay nói theo kiểu nói của luật sư Lê Thị Công Nhân, được chuyển
về một “nhiệm sở mới”. Linh mục Lý hẳn
cũng có chung tâm trạng của người được ra tù. Ông vui mừng vì được tự do hơn. Ông
vui mừng vì được gặp lại bà con thân nhân. Ông vui mừng vì được hy vọng chữa trị.
Nhưng tôi nghĩ,
ngoài những niềm vui bình thường trên đây, có lẽ người tù nhân lương tâm này
còn có một lý do sâu xa hơn để cười. Với ông, một ngày trong nhà tù lớn hay một
ngày trong nhà tù nhỏ có lẽ vẫn như nhau. Tuy chưa đến nỗi phải trải qua 27 năm
trong nhà tù của chế độ phân biệt chủng tộc Nam Phi như ông Nelson Mandela, hay
không phải chôn vùi tuổi thanh xuân trong tù như “ngục sĩ” Nguyễn Chí Thiện, linh mục Lý cũng
đã có 14 năm vào tù ra khám như cơm bữa. Xem ra vị linh mục này không màng đến
sự khác biệt giữa chốn tù đày và cảnh tự do. Ông tươi cười không vì được ra khỏi
nhà tù nhỏ cho bằng thấy mình đã chiến thắng. Ông hân hoan vì thấy mình vẫn tiếp
tục đứng vững trên hai chân như một con người.
Kết thúc cuộc phỏng
vấn dành cho chương trình Việt ngữ Đài Tiếng nói Hoa Kỳ ngay buổi tối khi vừa
ra khỏi nhà tù Ba Sao, linh mục Nguyễn văn Lý vẫn hãnh diện tuyên bố: “Đã chọn con đường tù đày để làm việc thì
càng ở tù tôi càng tỉnh táo và khôn ngoan hơn. Những người đấu tranh bất bạo động
thì càng ở tù thì càng mạnh hơn. Đối phương càng bắt bớ càng yếu hơn. Chuyện tù
đày là cái giá phải trả của những người đấu tranh chân chính” (Đài VOA,
chương trình Việt ngữ, 15/3/10)
Thì ra, vị linh
mục này đã “chọn con đường tù đày”. Tù
đày với ông là con đường vinh quang. Nụ cười với ông là hoa của chiến thắng. Sức
mạnh của nụ cười này cũng có tính thuyết phục không kém gì cảnh ông bị bịt miệng
trong phiên tòa tại Huế dạo tháng 3 năm 2007. Ông chấp nhận bị tước đoạt quyền
phát biểu để trở thành một tiếng nói hùng mạnh gấp bội phần. Ông cười để gởi đi
một sứ điệp: “Nụ cười là “dấu ấn của
Thiên Chúa” nơi con người. Loài vật không cười. Khi xử với nhau như loài sói,
người ta không cười nữa” (Robert Choin, trong “Hành Trang Sống Thế kỷ 21”)
Dù phải chống nạng
để bước đi, nhưng với nụ cười luôn nở trên môi, với tôi, linh mục Nguyễn văn Lý
mới thực sự là một người sống thẳng nói thật. Ông là người đã “sống” hết mình với
lời nhắn nhủ của chí sĩ Phan Bội Châu:
“Sống tủi làm chi đứng chật trời
Sống
nhìn thế giới hổ chăng ai?
Sống
làm nô lệ cho người khiến
Sống
chịu ngu si để chúng cười
Sống
tưởng công danh không tưởng nước
Sống
lo phú quý chẳng lo đời
Sống
mà như thế đừng nên sống
Sống
tủi làm chi đứng chật trời”
Sống thẳng nói
thật, cho nên nụ cười của Linh mục Lý cũng là một nụ cười có sức “thu hút” đặc
biệt đối với tôi.
Dù chỉ kéo dài
trong khoảnh khắc, những nụ cười như thế vẫn sống mãi trong tôi. Cũng thế,có
khi một cữ chỉ nhỏ cũng có sức tác động lớn lao.
Không bao lâu
sau khi chế độ cộng sản sụp đổ tại cái nôi khai sinh ra chủ nghĩa cộng sản là nước
Nga, nhiều ký giả đã hỏi cố tổng thống Boris Yeltsin ai là người đã khơi dậy
lòng can đảm nơi ông để có thể đứng vững và tống táng chủ nghĩa cộng sản tại
Liên Xô. Ông Yeltsin không ngần ngại trả lời rằng người đã mang lại nguồn cảm hứng
và can đảm cho ông chính là người thợ điện Lech Walesa, chủ tịch của Công Đoàn
Đoàn kết, người đã lãnh đạo cuộc đấu tranh bất bạo động dẫn đến sự cáo chung của
chế độ cộng sản tại Ba Lan.
Đến lượt ông
Walesa, khi được phỏng vấn và hỏi ai đã khơi dậy cảm hứng cho ông trong cuộc đấu
tranh bất bạo động, ông khẳng định rằng chính phong trào tranh đấu cho quyền
dân sự tại Hoa kỳ do cố mục sư Martin Luther King lãnh đạo đã là nguồn cảm hứng
của ông.
Về phần mình, cố
mục sư King lại tuyên bố rằng người đã từng mang lại cảm hứng và sự can đảm để
ông lãnh đạo phong trào tranh đấu cho quyền bình đẳng của người da đen tại Hoa
kỳ chính là bà Rosa Parks, người phụ nữ đã “một mình” cương quyết từ chối không
chịu rời khỏi chiếc ghế trên xe buýt vốn chỉ dành cho người da trắng.
Như vậy, một cử
chỉ nhỏ của người phụ nữ da đen “vô danh tiểu tốt” đã làm phát sinh cả một giây
chuyền những hành động dẫn đến sự sụp đổ của bao nhiêu chế độ độc tài trên thế
giới. Những cử chỉ nhỏ quả có sức liên kết và tác động to lớn. Chỉ có điều là
liệu người ta có dám tin rằng chúng có thể tạo nên sức mạnh vũ bão hay không mà
thôi.
Mới đây, tôi
cũng cảm thấy thực sự bị đánh động bởi tâm tình của một cô gái 16 tuổi, du học
sinh Việt nam tại Na Uy. Trong một bài viết ký tên là Joyce Anne Nguyễn, cô gái
Việt nam này đã dám lên tiếng nói thẳng những gì mà bao nhiêu người Việt nam
trong nước không dám nói đến. Kết thúc bài viết, cô viết:
“Đừng
bảo tôi im vì tôi sống ở Na Uy
Đừng
bảo tôi im vì tôi 16 tuổi
Đừng
bảo tôi im và bảo tôi chưa đủ trải nghiệm.
Đừng
bảo tôi im và bảo tôi thiếu hiểu biết.
Đừng
bảo tôi im và kết tội tôi chỉ copy và paste.
Đừng
bảo tôi im vì bạn im.” (VietLuan số ra ngày 9/3/2010)
Tiếng nói của cô
có thể gây tác động mạnh nơi tôi nên tôi cũng tin rằng, hễ còn có một trái tim
bằng xương bằng thịt, khó có ai có thể chai lì trước tiếng kêu của cô học trò
16 tuổi này.
Cụ già Nguyễn Hữu
Loan đã cười với cái cười của một cuộc đời “không
thành thân nhưng thành nhân”. Linh mục Nguyễn văn Lý đã cười với nụ cười
chiến thắng trên sợ hãi và hèn nhát. Đó là những nụ cười đã thật sự đánh động
tôi.
Trong những cử
chỉ nhỏ, không gì nhỏ và tầm thường cho bằng nụ cười. Nhưng tôi tin rằng cũng không
gì trường cửu và thu hút cho bằng một nụ cười, bởi vì:
“Một
nụ cười, không tốn kém gì, nhưng lại sinh nhiều lợi ích.
Nó
làm giàu cho người nhận và không làm người cho nghèo đi.
Nụ
cười chỉ vừa chốc lát, nhưng đôi khi lại gợi nhớ miên man.
Không
ai giàu đến độ không cần có nụ cười.
Cũng
chẳng ai nghèo đến độ không có nụ cười để trao ban.
Nụ
cười tạo hạnh phúc cho gia đình, là dấu chỉ cụ thể của tình bạn.
Một
nụ cười đủ cho người mệt được nghỉ ngơi, cho người thất đảm thêm can trường.
Bởi
đó, ai cũng cần đến nụ cười, ai cũng có nụ cười đem trao tặng”
(Hành Trang Sống
Thế kỷ 21)
Chu Thập 22.3.2010
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét