Thứ Năm, 7 tháng 8, 2014

Những Nụ Cười gợi Nhớ Miên Man…



                                                                                ChuThập, 22.3.2010     

Với tôi, dù chỉ nở trong một khoảnh khắc, nụ cười nào cũng bất tử. Có rất nhiều nụ cười vẫn sống mãi trong tôi.
Thời trung học, khi dẫn giải về thời kỳ Văn Nghệ Phục Hưng tại Âu Châu, giáo sư Pháp văn cho chúng tôi chiêm ngắm chân dung của người thiếu phụ trong bức tranh “La Joconde” nổi tiếng của danh họa Leonardo da Vinci. Kể từ đó, nụ cười “huyền bí” của nàng Mona Lisa đã mê hoặc tôi. Lạ thật, ở tuổi nào, tôi cũng vẫn cảm thấy bị thu hút bởi những phụ nữ có nụ cười “Mona Lisa”.
Có những nụ cười khác tuy không “huyền bí” và quyến rũ như nàng Mona Lisa nhưng vẫn thu hút và gây ấn tượng “vĩnh viễn” nơi tôi. Chẳng hạn, mỗi lần nghĩ đến đức Đạt Lai Lạt Ma, vị thủ lãnh tinh thần của Tây Tạng, thì tức khắc, nụ cười của Từ Bi, Nhẫn Nhục, Cảm Thông, Tha Thứ hiện ra. Đi tìm hiện thân của Bác Ái và Yêu Thương trong Kitô giáo, tôi không thể không nhớ đến nụ cười của Đức Gioan Phaolo đệ Nhứt, người chỉ làm giáo hoàng đúng 33 ngày hay nụ cười trên gương mặt nhăn nheo của Mẹ Têrêxa Calcutta.
Lúc gần đây, tôi lại “thu lượm” được thêm ít nhứt hai nụ cười đáng giá vào “album sưu tập nụ cười” của tôi.
Trước hết là nụ cười rạng rỡ của thi sĩ Nguyễn Hữu Loan, tác giả của bài thơ bất hủ “màu tím hoa sim”. Báo chí Việt nam hải ngoại đã viết nhiều về sự ra đi của ông. Riêng  báo Người Việt on line số ra ngày 18 tháng 3 vừa qua, kèm với bản tin, có đăng bức chân dung của nhà thơ này chụp tại Thanh Hóa khi ông gần  tuổi 95, với nụ cười rạng rỡ, mãn nguyện của một con người suốt một đời đấu tranh. Bài báo viết: “Từ làm ruộng, kéo xe cút kít, vác đá, mò cua bắt ốc để mưu sinh, suốt một chặng đường dài bề ngoài là âm thầm nhưng thật sự là cuộc đấu tranh, đấu trí không ngừng nghỉ giữa ông và chế độ độc tài đảng trị mà ông chạy trốn, được ông kể lại sau này.”
Năm 2004, trong một bài phỏng vấn dành cho chương trình Việt ngữ của Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ, ông nói: “Tôi theo dõi những cái tình hình chung của đất nước bây giờ là lừa đảo rối bét, ăn tham, bẩn nhất là thằng nào cũng lợi dụng trèo đầu cỡi cổ thằng dân chứ có cái gì đâu, tức là cái đảng Cộng Sản đấy. Cái đảng Cộng Sản mà còn lãnh đạo thì còn rối bét, không có ai là gương mẫu hết” (trích dẫn trên báo Người Việt on line)
Trong một lần tiếp khách, ông kể: “Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem về đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ, thế mà chúng vẫn trù dập, không để tôi yên.Tới hồi mới mở cửa, tôi được ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm gia nhập làm gì” (báo đã dẫn)
Cả một cuộc đời bị trù dập, nhưng thi sĩ Nguyễn Hữu Loan vẫn tỏ rõ khí phách của một cây sậy, bị bão tố cộng sản độc tài đè bẹp, nhưng ông vẫn tiếp tục đứng thẳng lên để, không vì một chút bã quyền lực, lợi lộc, mà uốn cong ngòi bút và bóp nghẹt tiếng nói của lương tâm.
Trong bài thơ “Cũng những Thằng Nịnh hót” được ông sáng tác năm 1956, thi sĩ Nguyễn Hữu Loan đã khẳng khái tuyên bố:
Là người, chúng ta
         Không ai biết
               Cúi đầu…
(Trích trong “Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc,  Mặt trận văn hóa, Sài Gòn 1959)
Không “cúi đầu” trước bạo quyền, cả cuộc đời của tác giả “Màu Tím Hoa Sim” không chỉ là một cuộc đấu tranh chống lại chế độ độc tài, mà còn là một chiến giữ Thiện và Ác, giữa Lẽ Phải và Gian Tà, giữa Lương Tri và Dối Trá.
Nụ cười của ông, cụ già râu tóc bạc phơ, quả là nụ cười của chiến thắng. Đó là sự chiến thắng của một con người đã chạy cho đến cùng đích của cuộc đời mà vẫn “đứng thẳng” như một con người, chứ không làm loài thú bò sát trong bùn nhơ của quyền lực, của cải, danh vọng. Với một “nhân đức anh hùng” như thế, thi sĩ Nguyễn Hữu Loan đã được tôi “phong thánh” và sống mãi trong tôi với nụ cười chiến thắng ấy.
Cùng với thi sĩ Nguyễn Hữu Loan, gần đây, nụ cười của linh mục Nguyễn văn Lý, người tù nhân lương tâm vừa ra khỏi nhà tù nhỏ đến bước vào nhà tù lớn cũng tạo ra cho tôi một tâm tình khó tả.Đây là lần đầu tiên tôi thấy vị linh mục này cười và cười…thật nhiều. Cùng với bản tin về việc ông được đưa về nhà hưu dưỡng các linh mục tại tòa Tổng giám mục Huế để chữa trị, tất cả báo chí của người Việt nam ở hải ngoại đều đăng tải những bức hình với nụ cười rạng rỡ của ông.
Linh mục Nguyễn văn Lý có đủ mọi lý do để tươi cười. Một ngày trong tù bằng cả ngàn ngày ở ngoài. Có tù nhân nào mà không vui khi được ra tù, dù chỉ là ra khỏi tù nhỏ để vào nhà tù lớn hay nói theo kiểu nói của luật sư Lê Thị Công Nhân, được chuyển về một “nhiệm sở mới”. Linh mục Lý hẳn cũng có chung tâm trạng của người được ra tù. Ông vui mừng vì được tự do hơn. Ông vui mừng vì được gặp lại bà con thân nhân. Ông vui mừng vì được hy vọng chữa trị.
Nhưng tôi nghĩ, ngoài những niềm vui bình thường trên đây, có lẽ người tù nhân lương tâm này còn có một lý do sâu xa hơn để cười. Với ông, một ngày trong nhà tù lớn hay một ngày trong nhà tù nhỏ có lẽ vẫn như nhau. Tuy chưa đến nỗi phải trải qua 27 năm trong nhà tù của chế độ phân biệt chủng tộc Nam Phi như ông Nelson Mandela, hay không phải chôn vùi tuổi thanh xuân trong tù như  “ngục sĩ” Nguyễn Chí Thiện, linh mục Lý cũng đã có 14 năm vào tù ra khám như cơm bữa. Xem ra vị linh mục này không màng đến sự khác biệt giữa chốn tù đày và cảnh tự do. Ông tươi cười không vì được ra khỏi nhà tù nhỏ cho bằng thấy mình đã chiến thắng. Ông hân hoan vì thấy mình vẫn tiếp tục đứng vững trên hai chân như một con người.
Kết thúc cuộc phỏng vấn dành cho chương trình Việt ngữ Đài Tiếng nói Hoa Kỳ ngay buổi tối khi vừa ra khỏi nhà tù Ba Sao, linh mục Nguyễn văn Lý vẫn hãnh diện tuyên bố: “Đã chọn con đường tù đày để làm việc thì càng ở tù tôi càng tỉnh táo và khôn ngoan hơn. Những người đấu tranh bất bạo động thì càng ở tù thì càng mạnh hơn. Đối phương càng bắt bớ càng yếu hơn. Chuyện tù đày là cái giá phải trả của những người đấu tranh chân chính” (Đài VOA, chương trình Việt ngữ, 15/3/10)
Thì ra, vị linh mục này đã “chọn con đường tù đày”. Tù đày với ông là con đường vinh quang. Nụ cười với ông là hoa của chiến thắng. Sức mạnh của nụ cười này cũng có tính thuyết phục không kém gì cảnh ông bị bịt miệng trong phiên tòa tại Huế dạo tháng 3 năm 2007. Ông chấp nhận bị tước đoạt quyền phát biểu để trở thành một tiếng nói hùng mạnh gấp bội phần. Ông cười để gởi đi một sứ điệp: “Nụ cười là “dấu ấn của Thiên Chúa” nơi con người. Loài vật không cười. Khi xử với nhau như loài sói, người ta không cười nữa” (Robert Choin, trong “Hành Trang Sống Thế kỷ 21”)
Dù phải chống nạng để bước đi, nhưng với nụ cười luôn nở trên môi, với tôi, linh mục Nguyễn văn Lý mới thực sự là một người sống thẳng nói thật. Ông là người đã “sống” hết mình với lời nhắn nhủ của chí sĩ Phan Bội Châu:
“Sống tủi làm chi đứng chật trời
Sống nhìn thế giới hổ chăng ai?
Sống làm nô lệ cho người khiến
Sống chịu ngu si để chúng cười
Sống tưởng công danh không tưởng nước
Sống lo phú quý chẳng lo đời
Sống mà như thế đừng nên sống
Sống tủi làm chi đứng chật trời”
Sống thẳng nói thật, cho nên nụ cười của Linh mục Lý cũng là một nụ cười có sức “thu hút” đặc biệt đối với tôi.
Dù chỉ kéo dài trong khoảnh khắc, những nụ cười như thế vẫn sống mãi trong tôi. Cũng thế,có khi một cữ chỉ nhỏ cũng có sức tác động lớn lao.
Không bao lâu sau khi chế độ cộng sản sụp đổ tại cái nôi khai sinh ra chủ nghĩa cộng sản là nước Nga, nhiều ký giả đã hỏi cố tổng thống Boris Yeltsin ai là người đã khơi dậy lòng can đảm nơi ông để có thể đứng vững và tống táng chủ nghĩa cộng sản tại Liên Xô. Ông Yeltsin không ngần ngại trả lời rằng người đã mang lại nguồn cảm hứng và can đảm cho ông chính là người thợ điện Lech Walesa, chủ tịch của Công Đoàn Đoàn kết, người đã lãnh đạo cuộc đấu tranh bất bạo động dẫn đến sự cáo chung của chế độ cộng sản tại Ba Lan.
Đến lượt ông Walesa, khi được phỏng vấn và hỏi ai đã khơi dậy cảm hứng cho ông trong cuộc đấu tranh bất bạo động, ông khẳng định rằng chính phong trào tranh đấu cho quyền dân sự tại Hoa kỳ do cố mục sư Martin Luther King lãnh đạo đã là nguồn cảm hứng của ông.
Về phần mình, cố mục sư King lại tuyên bố rằng người đã từng mang lại cảm hứng và sự can đảm để ông lãnh đạo phong trào tranh đấu cho quyền bình đẳng của người da đen tại Hoa kỳ chính là bà Rosa Parks, người phụ nữ đã “một mình” cương quyết từ chối không chịu rời khỏi chiếc ghế trên xe buýt vốn chỉ dành cho người da trắng.
Như vậy, một cử chỉ nhỏ của người phụ nữ da đen “vô danh tiểu tốt” đã làm phát sinh cả một giây chuyền những hành động dẫn đến sự sụp đổ của bao nhiêu chế độ độc tài trên thế giới. Những cử chỉ nhỏ quả có sức liên kết và tác động to lớn. Chỉ có điều là liệu người ta có dám tin rằng chúng có thể tạo nên sức mạnh vũ bão hay không mà thôi.
Mới đây, tôi cũng cảm thấy thực sự bị đánh động bởi tâm tình của một cô gái 16 tuổi, du học sinh Việt nam tại Na Uy. Trong một bài viết ký tên là Joyce Anne Nguyễn, cô gái Việt nam này đã dám lên tiếng nói thẳng những gì mà bao nhiêu người Việt nam trong nước không dám nói đến. Kết thúc bài viết, cô viết:
“Đừng bảo tôi im vì tôi sống ở Na Uy
Đừng bảo tôi im vì tôi 16 tuổi
Đừng bảo tôi im và bảo tôi chưa đủ trải nghiệm.
Đừng bảo tôi im và bảo tôi thiếu hiểu biết.
Đừng bảo tôi im và kết tội tôi chỉ copy và paste.
Đừng bảo tôi im vì bạn im.” (VietLuan số ra ngày 9/3/2010)
Tiếng nói của cô có thể gây tác động mạnh nơi tôi nên tôi cũng tin rằng, hễ còn có một trái tim bằng xương bằng thịt, khó có ai có thể chai lì trước tiếng kêu của cô học trò 16 tuổi này.
Cụ già Nguyễn Hữu Loan đã cười với cái cười của một cuộc đời “không thành thân nhưng thành nhân”. Linh mục Nguyễn văn Lý đã cười với nụ cười chiến thắng trên sợ hãi và hèn nhát. Đó là những nụ cười đã thật sự đánh động tôi.
Trong những cử chỉ nhỏ, không gì nhỏ và tầm thường cho bằng nụ cười. Nhưng tôi tin rằng cũng không gì trường cửu và thu hút cho bằng một nụ cười, bởi vì:
“Một nụ cười, không tốn kém gì, nhưng lại sinh nhiều lợi ích.
Nó làm giàu cho người nhận và không làm người cho nghèo đi.
Nụ cười chỉ vừa chốc lát, nhưng đôi khi lại gợi nhớ miên man.
Không ai giàu đến độ không cần có nụ cười.
Cũng chẳng ai nghèo đến độ không có nụ cười để trao ban.
Nụ cười tạo hạnh phúc cho gia đình, là dấu chỉ cụ thể của tình bạn.
Một nụ cười đủ cho người mệt được nghỉ ngơi, cho người thất đảm thêm can trường.
Bởi đó, ai cũng cần đến nụ cười, ai cũng có nụ cười đem trao tặng”
(Hành Trang Sống Thế kỷ 21)

 Chu Thập 22.3.2010







Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét