Chu Thập, 24/8/2010
Nói đến “am” thì
phải cảm được cái không khí lành lạnh của cõi âm hay ít nhứt ngửi được mùi
nhang khói cúng cô hồn các đẳng. Đàng này, “giang sơn” của tôi thì hoàn toàn
khác hẳn. Phía sau vườn nhà tôi là cả một rừng cây xanh trải dài trên một sườn
núi đủ cao để tôi không còn nhìn thấy bất cứ một ngôi nhà nào và như vậy cho
tôi cái cảm giác được làm vua một cõi.
Không cần phải tốn tiền và mất công để nuôi chim, ngày nào tôi cũng có thể nghe
được đủ mọi thứ tiếng hót của các loại chim mà đất Úc đại lợi có thể có được.
Thỉnh thoảng, trong những ngày nắng ấm của mùa Đông, tôi cũng có thể tổ chức một
buổi picnic ngay trong vườn nhà mình. Còn gì thú vị bằng vừa ngồi phơi nắng vừa
ăn uống vừa chiêm ngắm cảnh đẹp mà không cần phải đi đâu xa.
Hơn nữa, trong
thời đại “a còng” này, không cần phải lặn lội ra phố để săn tin tức. Ngồi nhà
mà vẫn biết được mọi sự đang xảy ra trên cái thế giới được thu tóm thành một
ngôi làng nhỏ. Ngồi một mình trước màn ảnh truyền hình cũng vẫn có thể “hòa nhập”
vào cơn sốt World Cup kéo dài cả tháng. Cũng chẳng cần phải lặn lội đến các trụ
sở hành chính để theo dõi tin tức bầu cử mà vẫn có thể làm tròn trách nhiệm
công dân của mình.
Quả thật, tôi
đang có một cuộc sống thanh tịch. Nhưng nói như thế không có nghĩa là cuộc sống
ấy không còn đòi hỏi sự chiến đấu. Có khi sóng lại dậy ngay trong tách trà. Thử
thách và kẻ thù thì xem ra ở đâu cũng có cả. Lúc mới dọn về gần cái lâm viên quốc
gia này, tôi cứ tưởng mình sẽ “ngồi thiền” một chỗ để mà hưởng cái không khí an
bình thanh thản. Nhưng khi bắt đầu thích nghi với khung cảnh mới, tôi mới thấy
mình phải chống chọi với không biết bao nhiêu “kẻ thù”. Tôi muốn nói tới cái
đám “dân bản địa” đã “lập nghiệp” từ lâu trong khu rừng này. Thực ra, chính tôi
mới là kẻ phá hoại trật tự và an ninh của họ. Trước đây, đám gà tây rừng ngày
nào cũng là “khách mời” thường xuyên của khu vườn nhà tôi. Nay chúng phải “hận”
lắm bởi vì tôi không những đã rào giậu cẩn thận xung quanh ngôi vườn, mà mỗi
ngày còn rình rập để xua đuổi chúng.
Nhưng giải quyết
“ân oán giang hồ” với cái đám du thủ du thực ban ngày này xem ra không phải là
chuyện lớn. Điều làm cho tôi mất ăn mất ngủ chính là phải đương đầu với cái đám
“possums”, tức cái giống chuột khổng lồ, kẻ thù dấu mặt cứ xuất hiện về đêm. Cứ
đêm đến thì chúng lại “làm việc”. Ngoài tiếng “than thở” rợn người giữa đêm khuya, cái
giống sống về đêm này khi đã phá hoại thì quyết càn quét cho tới cùng. Bất cứ
rau cỏ và lá cây nào chúng nó cũng ngốn cả.
Khổ nỗi là trong
cái xứ Úc “khùng” này, xem ra mình không có quyền “chống đỡ” trước sự tấn công
của thú vật. Giận cá băm thớt, cho nên kỳ bầu cử vừa qua, tôi hận cái Đảng Xanh
đến độ chẳng dành cho họ một chỗ đứng nào trong hai lá phiếu của tôi.
Giá như tôi được
tự do “xử lý” với mấy con thú rừng chuyên phá hoại mùa màng như ở Việt nam thì
chắc chắn mấy con “possums” nếu không từ chết đến bị thương thì cũng thành “mồi”
cho mấy bợm nhậu thôi. Còn ở đây, suốt ngày tôi cứ phải vò đầu bức tóc, đêm thì
mất ngủ chỉ vì không biết phải làm sao để loại trừ kẻ thù không đội trời chung
này. Điên đầu nát óc, cuối cùng tôi cũng đành phải chấp nhận cái triết lý:
không loại trừ được thì đành phải sống chung với kẻ thù vậy.
Vấn đề là làm thế
nào để sống chung với kẻ thù?
Tôi nhớ đầu thập
niên 1990 có xem cuốn phim có tựa đề “Sleeping
with the enemy” (ngủ với kẻ thù). Tôi đi xem cuốn phim là bởi “mê” cô đào Julia
Roberts, người thủ vai chính. Nội dung cuốn phim chẳng có gì đặc sắc: một cặp vợ
chồng trẻ và giàu có sống bên cạnh một bãi biển. Mới nhìn vào ai cũng thấy thèm
cái “hạnh phúc” mà họ đang hưởng. Kỳ thực, người chồng là một người đàn ông bệnh
hoạn, vũ phu. Không chịu được tính ghen tuông và thích bạo hành của người chồng,
người vợ đã ngụy tạo cái chết của mình: một buổi sáng nọ, cô ra biển và không
bao giờ trở về. Lúc đầu người chồng và mọi người xung quanh đều tưởng cô đã bị
chết đuối và làm mồi cho cá mập. Nhưng sau đám tang, người chồng đã tìm thấy
chiếc nhẫn cưới của vợ trong bồn vệ sinh. Anh biết ngay rằng vợ anh đã dàn cảnh
để trốn thoát. Phần còn lại của cuốn phim là một chuỗi những màn săn đuổi mà kết
thúc là cảnh người chồng bị chính vợ mình bắn gục.
Người vợ trong
cuốn phim “Ngủ với kẻ thù” không tìm
được một giải pháp nào khác hơn là “trốn” kẻ thù: tránh voi chẳng xấu mặt nào
là thế!
Năm 2005,
Hollywood lại sản xuất một cuốn phim khác với tựa đề “Living with the enemy” (sống với kẻ thù). Tại một hội nghị, một thiếu
nữ gặp một tỷ phú trẻ đẹp trai. Họ yêu nhau và lấy nhau. Nhưng không bao lâu
sau đó, người vợ khám phá những điều bất thường nơi người chồng. Cuộc điều tra
của FBI cho thấy người chồng cô đang sống với là một tên sát nhân đã từng giết
người vợ trước và dính vào nhiều hành động tội ác.
Có những kẻ thù
mình trốn chạy được, nhưng cũng có những kẻ thù mình phải giáp mặt hay sống với.
Tôi thấy “quan hệ” của tôi với mấy con “possums” cũng gần giống như thế. Bỏ chạy
không được mà loại trừ cũng không xong.
Tôi đành bó tay.
Nhưng nhà tôi không chịu bỏ cuộc. Cũng may, thời buổi này cái gì cũng có thể học
được trên Internet. Chỉ cần gõ vào Google con chữ “possum” là có thể có được tất
cả mọi thứ thông tin về cái giống vật “quái ác” này. Có cả một “hội nghị thượng
đỉnh” về vấn nạn possum: nhóm yêu thích possum thì không nhiều và cũng không có
cách gì khác hơn là chịu đựng. Nhưng những người chống đối thì bực bội thấy rõ.
Đủ mọi cách đối phó được đưa ra: từ làm hàng rào lưới bao bọc cây cho đến hệ thống
hàng rào điện, từ xịt nước pha ớt với tỏi lên lá cây đến bật đèn suốt đêm…nhưng
không mấy ai ghi nhận được kết quả. Có người đã tìm cách bẫy được chúng rồi đem
đi xa cả mười cây số mà chúng vẫn “trở về mái nhà xưa”. Sau mấy ngày nghiên cứu
trên Internet, nhà tôi đã tìm được một giải pháp “tối ưu” để sống chung với kẻ
thù. Cái “kế sách” ấy giản dị vô cùng mà tôi không bao giờ nghĩ tới: “possums”
là kẻ thù mà người ta chỉ có thể thuần hóa và biến thành “pet” như thú vật nuôi
trong nhà chứ không thể xua đuổi. Để thực hiện kế hoạch “biến thù thành bạn”
này, mỗi tối chúng tôi dọn nguyên một “mâm cỗ” cho nó. Rau cải trái cây thừa
trong bếp thay vì bỏ vào thùng “compost” lại được “phân loại” cho mâm cỗ của kẻ
thù. Vậy là cứ mỗi tối, chúng tôi lại có thêm một cái thú: rình xem “possum”
thưởng thức cao lương mỹ vị chúng tôi dọn sẵn cho. Trước kia, bộ mặt của
“possum” trông xấu xí, đáng nguyền rủa bao nhiêu, thì nay lại dễ thương bấy
nhiêu. Nó ăn như người ta ăn tiệc: ngồi thoải mái trên hai chân sau, dùng hai
tay đưa thức ăn lên miệng, từ tốn, thong thả, vừa ăn vừa ngắm cảnh vừa đong đưa
cái đuôi dài. Cứ xong bữa tiệc, nó lại ngoan ngoãn ra về. Kể từ đó, vườn cây và
rau cỏ của tôi còn nguyên. Còn chúng tôi có thêm một người bạn dễ thương, cứ
đêm đêm “đến hẹn lại lên”.
Mỗi tối, cứ mỗi
lần “dọn cỗ” cho “possum” và ngồi rình chờ người khách đến thưởng thức và thư
thái ra về để không còn phá hoại cây cỏ và “mùa màng” trong vườn, tôi lại suy
nghĩ về quan hệ của tôi với người khác. Ở cái nơi thâm sâu cùng cốc này, tôi
không có kẻ thù “người” hay nếu có thì cũng đã lánh mặt chạy xa rồi. Nhưng dù
có ít sinh hoạt xã hội đến đâu, làm sao tôi có thể tránh gặp người này người nọ.
Ra ngõ thì chạm mặt với người hàng xóm. Lái xe ra đường, không gặp cảnh sát thì
cũng đụng đầu với những người lái xe “mất dậy”. Đi câu cá thì thỉnh thoảng cũng
gặp nhiều tay “trời đánh” chẳng xem người khác ra gì. Cần thủ tục giấy tờ thì
cũng phải đến các cơ quan chính phủ. Đi mua sắm thì cũng gặp nhân viên bán
hàng. Nói chung, tôi không thể tuyệt đối tránh quan hệ với người khác. Và trong
những người khác ấy thì trăm người trăm mặt, trăm cá tính. Có những người mới gặp
thấy có cảm tình ngay. Có những bản mặt mới nhìn thấy ác cảm tức khắc.
Duyệt lại các
quan hệ ấy, tôi nghiệm ra một điều: một trong những thách đố lớn nhứt trong cuộc
sống là làm sao hiểu được cách cư xử của người khác. Chẳng gì thách thức chúng
ta cho bằng việc hiểu được tại sao một số người có những cử chỉ và hành động mà
chúng ta cho là “bất thường” hay “kỳ cục”. Chúng ta thường tỏ ra “khó chịu”, bất
mãn trước những thái độ như thế. Rốt cục, kẻ đau khổ là chính chúng ta và thay
đổi hay không cũng là chính chúng ta.
Câu chuyện của
hai thiền sư xuống núi quả có một ý nghĩa đặc biệt ở đây. Một vị không ngần ngại
“cõng” một thiếu nữ qua một dòng suối. Về đến nhà, vị khác cứ cằn nhằn trách
móc tại sao ông đã phá giới như thế. Ông trả lời: “Tôi đã bỏ người thiếu nữ lại
bên bờ suối. Còn huynh, huynh lại tiếp tục mang cô ta về đến nhà.”
Nhiều lúc, cho dẫu
cố lánh xa chốn phồn hoa đô hội, tôi vẫn cứ “cõng” những bộ mặt “khó ưa” về tịnh
xá của tôi để rồi đêm ngày gặm nhấm những bất bình do chính mình tạo ra. Tôi chẳng
khác nào cái thứ rắn rung chuông khi bị nhốt trong cái lồng chật hẹp: tôi lại cắn
vào chính cái đuôi của tôi.
Sở dĩ có hành động
tự “gặm nhấm” như thế là bởi tôi không chịu nhìn thấy khía cạnh tích cực bên
kia những thoáng hiện bên ngoài của người khác. “Thương nhau trái ấu cũng tròn, mà ghét nhau bồ hòn cũng méo.” Trước
kia, cũng mấy con “possums” đó, tôi chỉ thấy có bộ mặt “xấu xí” đáng nguyền rủa.
Bây giờ cũng mấy con vật đó, tôi lại thấy “dễ thương”. Nơi con vật chẳng có gì
thay đổi. Thay đổi hay không là cách cư xử và sự cảm nhận của tôi.
Xét cho cùng, “kẻ
nội thù” không ai khác hơn là chính bản thân tôi. Dù ở đâu, tôi cũng vẫn có thể
mang theo kẻ thù ấy. Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhà lãnh đạo tinh thần của Tây Tạng,
khẳng định rằng “kẻ thù ghê gớm nhứt” là những cảm xúc như tham si sân hận
trong con người chúng ta. Ngài nói: “Những
cảm xúc ấy là những trạng thái tinh thần thúc đẩy chúng ta cư xử bằng những
cách thế làm cho chúng ta bất hạnh và đau khổ. Để tìm được an bình và hạnh
phúc, cần phải nghĩ đến những cảm xúc ấy như những con quỉ bên trong chúng ta.
Cũng như ma quỉ, chúng có thể ám hại chúng ta, làm cho chúng ta khốn khổ.”(
The Dalai Lama, An Open Heart, Practicing Compassion in Everyday Life, Hodder
Headline Australia Pty limited, 2000, p.78)
Những “con quỉ bên trong” mà Đức Đạt Lai Lạt
Ma điểm mặt cũng được Chúa Giêsu nói đến
khi Ngài dạy rằng “chính từ bên trong, tức
từ lòng người mà xuất phát những ý định xấu” (x. Mc 7, 14–23). Đó là những
thứ thần “ô uế” mà cho dù có trốn chạy
đi đâu chúng ta cũng vẫn có thể mang theo trong người. Nếu để cho những kẻ nội
thù ấy kiểm soát và điều khiển thì chắc chắn chúng ta không thể tránh khỏi cái
cảm giác “nhìn đâu cũng thấy kẻ thù” như
những người Cộng sản thường vướng phải. Và
một khi quan hệ với người khác chỉ còn được dệt bằng ánh mắt của ngờ vực, đố kỵ,
ganh ghét và nhứt là hận thù thì làm sao tâm hồn có thể có được sự an bình.
Nghĩ như thế cho
nên mỗi tối, khi làm thêm cái “job” mới là được dọn bữa cho mấy con “possums”,
tôi thầm cám ơn mấy “thiên thần nhỏ” này. Mỗi đêm chúng lại đến để nhắc nhở tôi
rằng muốn sống an bình và hạnh phúc, tôi cần phải chiến thắng “kẻ nội thù” trong chính tôi và mở mắt
nhìn đời, nhìn người, nhìn thú vật với ánh mắt cảm thông và yêu thương.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét