Thứ Tư, 20 tháng 8, 2014

…Ao Nhà Vẫn Hơn


                                                                          
 Chu Thập, 9.8.2010

Có được một ngôi nhà bên cạnh bờ sông hay nhìn ra biển là ước mơ của nhiều người Úc. Nhưng với tôi, giấc mơ trở thành sự thật là được làm một chuyến du hành lênh đênh trên sóng nước, giữa trời biển bao la.
Câu mở đầu một bài thơ của thi sĩ Pháp Joachim du Bellay vào thế kỷ thứ 16 không hiểu từ lúc nào đã trở thành giấc mơ của tôi. Ông viết: “Được thực hiện một cuộc phiêu lưu tốt đẹp như Ulysses là một niềm hạnh phúc.” (Heureux qui, comme Ulysses, a fait un beau voyage). Ulysses hay còn gọi bằng tiếng Hy lạp là “Odysseus” là nhân vật chính trong huyền sử ca “Odysseus” của thi hào Hy lạp Homer vào thế kỷ thứ 8 trước Công nguyên. Trong tiếng Hy lạp, Odysseus có nghĩa là đa mưu túc trí và dũng lược. Có lẽ nhờ tài trí, sự liều lĩnh và gan dạ mà nhân vật huyền thoại này đã vượt qua được bao nhiêu hiểm nguy, nhứt là giữa biển cả, để cuối cùng, sau cuộc mạo hiểm kéo dài 20 năm trời, Odysseus gặp lại cha già và người vợ thân yêu.
Suốt đời, tôi không mơ ước được làm một cuộc phiêu lưu “đẹp” như nhân vật Odysseus. Tôi cũng chẳng bao giờ dám nghĩ sẽ theo bước chân của những nhà hàng hải nổi tiếng trong lịch sử nhân loại như Cristoforo Colombo, như Marco Polo, như Magellan, như Captain Cook…Nhưng ít nhứt, những ngày lênh đênh giữa biển cả trong cuộc vượt biên đi tìm tự do cũng cho tôi có được cái cảm giác của phiêu lưu và hưởng được những “niềm vui” khó có được lần thứ hai. Chẳng có gì sung sướng bằng, khi chiếc thuyền con tưởng như bị nhận chìm vào lòng đại dương, bỗng nhận ra từ xa một cột khói nhô lên từ một dàn khoan dầu. Kế đó là “bữa tiệc” đầu tiên trong không khí tự do. Một đĩa cơm trắng, vài con cá hộp, chỉ có vậy, nhưng tôi tin chắc là không người Việt tỵ nạn nào có thể tìm lại được cái hương vị ngọt ngào của tự do và tình người trong bữa tiệc đầu tiên ấy. Nói gì đến điếu thuốc đầu lọc và ly cà phê “instant” cũng lần đầu tiên được thưởng thức ở đầu đời tỵ nạn ấy. Nó mới “phê” và “đã” làm sao! Rồi những tháng ngày chỉ biết “ăn và chơi” trong trại tỵ nạn để chờ đi định cư: làm sao có lại được “thiên đàng đã mất” ấy!

Chính vì nuối tiếc cái “thiên đàng đã mất” ấy mà năm nay tôi quyết định “làm” một chuyến du hành bằng đường thủy. Từ trước đến giờ, tôi cứ tưởng rằng đi “cruise” trên “du thuyền” là chuyện xa xí chỉ dành riêng cho giới thượng lưu. Lên tàu, tôi mới thấy rằng hành khách thuộc đủ mọi giai cấp, tuổi tác. Không cần phải dư dả, mà chỉ cần biết dành dụm, bớt tiêu pha những thứ không cần thiết trong vài tháng là thừa khả năng để “chen chân” vào cái thế giới chỉ biết có “ăn và chơi” này. Du lịch bằng tàu quả là một thế giới của “ăn và chơi”.
Tôi bước lên chuyến “cruise” như một anh nhà quê ra tỉnh, thấy cái gì cũng lạ, nhìn cái gì cũng “hay”. Điều “lạ lẫm” đầu tiên đối với tôi là tính “đa chủng” của hành khách trên chuyến du hành. Nếu phải thu tóm thế giới thành một ngôi làng nhỏ thì không đâu lý tưởng bằng chuyến “cruise”: không kể thủy thủ đoàn và nhân viên phục vụ trên tàu, gần 2 ngàn hành khách “đại diện” cho mọi sắc dân và chủng tộc sống chung “hòa bình” với nhau trong suốt hơn một tuần lễ trong một “cao ốc” 10 tầng lênh đênh với chiều dài 230 thước và chiều ngang 32 thước. Lần đầu tiên tôi được sống trong một xã hội “đa tạp” như thế mà không thấy bóng dáng của bất cứ một nhân viên công lực nào.
7 ngày 9 đêm lênh đênh trên biển cả chỉ để “ăn và chơi và ngủ” cho nên hành khách được phục vụ tối đa. Không biết có học được cái thứ ngôn ngữ tiếp thị “ngạo mạn” của cộng hòa xã hội Việt nam không, mà ban quản lý của chuyến cruise đã biến mỗi hành khách thành một “thượng đế” được phục vụ tối đa từ A đến Z và từ sáng cho đến tối. Sáng dậy, mới mở mắt đã thấy có người “bồi phòng” đứng trước cửa để chuẩn bị “làm giường” và lau dọn phòng. Chiều đến, họ lại vào phòng một lần nữa để chuẩn bị “giấc ngủ” cho hành khách. Cần gì thì chỉ cần ấn chuông, vài phút họ đã có mặt.
Xuống đến các phòng ăn thì khỏi nói: ở bất cứ góc nào cũng có những người “hầu bàn” lịch sự chực sẵn. Trong suốt chuyến du lịch, tôi bị “buộc” phải làm “thượng đế” để chỉ được hầu hạ và phục vụ.
Cái anh nhà quê ra tỉnh như tôi bỗng thấy mình lạc vào một thế giới không bình thường chút nào. Dù đi đây đi đó bằng những phương tiện khác cũng nhiều, tôi thấy mình thực sự lúng túng khi phải đóng vai “thượng đế” suốt một tuần lễ. Ngoại trừ những việc vệ sinh cá nhân và lo cho thức ăn vào dạ dày, tôi chẳng được làm cái gì cả. Càng được phục vụ chu đáo tôi lại càng thấy “khó sống”.
Chính vì “thất nghiệp” tôi đâm có nhiều thì giờ để quan sát và nhận xét. Trong cái thế giới chỉ có “ăn và chơi” này, tôi nhận ra một thực tại đáng buồn của xã hội Úc. Mỗi lần ngồi yên một chỗ để nhìn dòng người đi qua lại trước mắt, tôi lại làm một cuộc “thống kê” bỏ túi: cứ 10 người thì cũng có đến 6, 7 người có trọng lượng “báo nguy” về những cơn bệnh hiểm nghèo như tiểu đường và tim mạch. Vậy mà trong những ngày xa đất liền, dường như người ta tạm quên đi cái thực tại ấy để “ăn uống” cho thỏa thích.


Phải nói, đồ ăn thức uống trên tàu quá ê hề và không giới hạn giờ giấc nơi chốn. Từ “all you can eat” tới nhà hàng sang trọng mở từ sáng tới khuya. Hành khách cứ ăn rồi chơi, chơi rồi ngủ. Sáng ra, mọi bề bộn lại đâu vào đó như có phép lạ. Về cái khoản “chơi” thì cũng khỏi nói. Mỗi ngày đều có những sinh hoạt vui chơi giải trí khác nhau cho con nít tới người già. Trong cái ngôi làng nổi trên biển này, ở đâu và lúc nào cũng có những cuộc chơi: từ shopping trong duty free đến casino, bingo, đến “nhảy đầm”, văn nghệ, chiếu bóng, karaoke, bơi lội, cá ngựa, thể dục thể thao v.v .
Tôi cứ tưởng mình có thể “tạm quên” được cuộc sống trên đất liền để “ăn chơi” cho thỏa thích. Thế nhưng, cái “thiên đàng đã mất”, cái cảm giác trong ngày đầu tiên từ chiếc thuyền vượt biên bước lên bờ tự do, mà tôi cố tìm lại ấy đã chẳng bao giờ thực sự trở lại. Chỉ sang ngày thứ ba của chuyến du hành là tôi đã bắt đầu thấy “chán”. Chán nhứt là thức ăn trên tàu. Thực lạ lùng, càng cao lương mỹ vị đến đâu, càng “tiệc tùng” bao nhiêu, thì càng thấy mau ngán. Không biết có phải vì tôi quen ăn món thanh đạm mà thấy vậy chăng?
Vì vậy, thay cho nỗi lo bị “sea sick” (say sóng) tôi lại vướng vào “home sick” (nhớ nhà). Những lúc “nhớ nhà” và thèm “nước mắm” như thế, tôi lại nhớ đến câu chuyện tiếu lâm “nhà đạo” được nghe đâu đó. Có một người thanh niên nọ làm một giao kèo với ma vương quỉ dữ để được một lần  xuống hỏa ngục làm một chuyến “thăm thú” cho biết sự tình rồi mới quyết định về số phận của mình. Mơ ước của anh được thỏa mãn tức khắc. Người thanh niên thấy mình lạc vào một thế giới hoàn toàn trái ngược với những hình ảnh được các nhà đạo đức vẽ ra. Trước kia, trong trí tưởng tượng của anh, hỏa ngục là nơi chỉ có đọa đày và khổ đau. Nhưng giờ đây, hỏa ngục lại hiện ra như một thế giới chỉ có lạc thú. Bất cứ lạc thú nào trên trần gian cũng đều được thỏa mãn. Sau vài ngày “ăn chơi” thỏa thích, người thanh niên trở lại trần gian “khốn khổ” của mình để thực hiện giao kèo đã ký với ma quỉ. Chữ ký chưa ráo mực, anh đã thấy mình được đưa vào hỏa ngục thực sự. Lần này, thay cho cái thế giới lạc thú mà anh được hưởng trước đây là một chuỗi những đọa đày mà anh chưa bao giờ nghĩ đến. Trong chốn cực hình, người thanh niên thấy cần phải “khiếu kiện”. Anh được mang đến trình diện trước Diêm vương. Sau khi nghe hết sự tình, với nụ cười đểu giả mà anh chưa bao giờ nghe thấy trên trần gian, kẻ mà Kinh Thánh gọi là “Cha đẻ của sự dối trá” liền phán: “Này hỡi tên ngu ngốc, trước kia ngươi xuống hỏa ngục là để “thăm thú”. Với tư cách là một “du khách”, ngươi được hưởng mọi lạc thú không có trên trần gian. Giờ đây, người đã quyết định chọn hỏa ngục làm quê hương, thì đương nhiên ngươi phải được đối xử như một “thường trú nhân” của hỏa ngục mà thôi.” Phán xong bấy nhiêu, dĩ nhiên, Diêm vương ra lệnh cho mấy tên quỉ nhỏ ném người thanh niên vào vạc dầu sôi trở lại.
Chỉ sau vài ngày thưởng thức các thứ của ngon vật lạ trên chuyến du hành, tôi thấy mình cũng giống như người thanh niên trong câu chuyện tiếu lâm trên đây. Làm “du khách” và chỉ “ăn chơi” vài ngày thì quả thật chẳng đâu sướng bằng đi cruise. Nhưng nếu bị buộc phải làm một “thượng đế” với tư cách “thường trú nhân” trên tàu, thì một cuộc sống như thế quả là kiếp đọa đày đối với tôi.
Tôi chợt nhớ lại gương mặt lúc nào cũng tươi cười của các “thường trú nhân” tức các nhân viên phục vụ trên tàu. Đa số là người Á châu như Phi luật tân, Nam Dương, Ấn độ hay dân các đảo trong Thái Bình Dương. Họ phải làm việc mỗi ngày 11 tiếng đồng hồ và 7 ngày một tuần liên tục như vậy suốt 8 tháng. Điều này có nghĩa là trong suốt giao kèo 8 tháng, họ không được phép lên đất liền ngày nào, ngoại trừ khi có nhiệm vụ tháp tùng và phục vụ hành khách mỗi khi tàu dừng lại gần một hoang đảo.
Tôi hiểu được tâm trạng của những “thường trú nhân” này qua cung cách phục vụ và nụ cười lúc nào cũng tươi nở của hai người Nam Dương chuyên dọn phòng cho du khách trong dãy hành lang của tôi. Đây là công việc nhàm chán nhứt trên tàu. Trong các phòng ăn hay sinh hoạt khác, nhân viên có nhiều dịp tiếp xúc với du khách để còn cảm thấy có cuộc sống xã hội bình thường. Nhưng trong cái dãy hành lang dài hun hút mà hai người đàn ông Nam Dương này chịu trách nhiệm, họ phải lủi thủi làm việc suốt ngày trong âm thầm. Nhưng tại sao lúc nào họ cũng có thể tươi cười như thế? Tôi nghĩ: bí quyết của họ chính là niềm hy vọng. Hy vọng có được một số tiền mang về cho vợ con và gia đình. Hy vọng có được một tương lai sáng sủa hơn sau vài năm phục vụ trên tàu. Chỉ có một niềm hy vọng như thế mới giúp hai người Nam Dương này cũng như tất cả những nhân viên phục vụ được mướn từ những nước nghèo Á châu khác, có thể chịu đựng được cuộc sống xa quê hương, xa gia đình và nhứt là “vui” với công việc độc điệu nhàm chán mỗi ngày như thế. Cuộc sống chịu đựng của họ tác động nhiều lên những suy nghĩ của tôi. Mỗi khi về phòng, gặp lại hai người Nam dương đang hết lòng làm việc phục vụ cho cái “thằng tôi” tay chân khỏe mạnh lành lặn này, tôi càng thấy mình không đóng vai “thượng đế” nổi. Họ cũng chính là những người mang đến cho tôi “niềm vui” thực sự khi một trong hai người chia sẻ với tôi vào ngày tàu cặp bến: đó cũng là ngày anh vừa hoàn tất hợp đồng 8 tháng, khi tôi lên bờ, anh cũng sẽ chuẩn bị rời tàu để về nước. Nghe anh ta khoe sẽ gặp lại vợ con trong vòng 48 tiếng đồng hồ nữa, tôi thấy mình reo vui và háo hức theo.
“Đi cho biết đó biết đây, ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn.” Cái “khôn” mà tôi nghĩ mình đã “ngộ” được trong chuyến đi cruise vừa qua chính là nhận ra được ý nghĩa tuyệt vời trong cuộc sống độc điệu của tôi. Sau vài ngày “tối sâm banh, sáng sữa bò” trên chuyến “cruise”, tôi không chỉ thấy thèm một chén cơm, một dĩa rau luộc, một miếng cá kho, tôi còn cảm thấy nhớ những thứ mà bình thường tôi ít khi màng tới như tiếng chim hót xung quanh nhà, tiếng than van ỉ ôi đòi ăn của mấy chị gà mái trong chuồng mỗi sáng làm tôi không ngủ nướng được và nhứt là vườn rau xanh sau nhà. Xét cho cùng, có một lần đi xa ta mới thấy cái khung cảnh quen thuộc đến độ nhàm chán và cuộc sống độc điệu mỗi ngày, tự nhiên trở thành đáng “trân quý.”
Tôi tưởng đã tìm lại được “thiên đàng đã mất” trên chuyến du thuyền.  Nhưng bây giờ tôi mới nghiệm ra rằng cái “thiên đàng đã mất” ấy lại chính là cuộc sống thường ngày của tôi. Cái cuộc sống mà trong đó yêu thương, phục vụ, đóng góp, chia sẻ, hy sinh và làm việc là yếu tố chính. Bây giờ tôi mới nhận ra rằng càng đi đây đó, càng tích lũy vốn liếng hiểu biết, càng gặp nhiều người nhiều cảnh, càng bôn ba cho mấy cuối cùng rồi cũng thấy “ao nhà vẫn hơn”.







Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét