Thứ Ba, 12 tháng 8, 2014

Đói Ăn Rau, Đau Uống Thuốc



                                                                              Chu Thập 26.5.2010


Đầu đời tỵ nạn, một trong những hình ảnh đập vào mắt tôi nhứt giữa thủ đô Paris, Pháp quốc có lẽ là cái gỏi cuốn tôm thịt trên tay của một thanh niên Pháp.
Năm 1982, tôi được nước Pháp đón nhận và cho tỵ nạn. Sau một tuần lễ ăn toàn bánh mì, bơ sữa, phó mát và rượu trong trung tâm tạm cư, tôi thấy thèm cơm và nước mắm. Thế là tôi mon men tìm đường lên Kinh Đô Ánh Sáng. Đường nằm trên cửa miệng. Hệ thống xe lửa và xe điện ngầm của Pháp lại tối tân và tiện lợi nhứt thế giới. Cho nên chỉ cần vài ba câu tiếng Pháp bỏ túi, tôi đã có thể len lỏi vào được mọi ngõ ngách của thủ đô Paris.
Lần đó, vừa lên xe điện ngầm, tôi cảm thấy vừa thèm thức ăn Việt nam lại vừa hãnh diện khi nhìn thấy trước mặt mình một người thanh niên Pháp đang ăn một cách ngon lành một cái gỏi cuốn tôm thịt. Tôi tin chắc đây là món “fast food” mà người thanh niên này đã mua từ một tiệm ăn Việt nam nào đó ở quận 13, thủ đô của người Việt ở Paris. Rõ ràng là bên trong cái gỏi cuốn có một ít bún, mấy con tôm bóc vỏ mầu đỏ, vài miếng thịt ba chỉ, năm ba cọng hẹ và một ít rau húng. Một ý nghĩ bỗng lóe lên trong đầu tôi: Tây nó dùng vũ lực và văn hóa để đô hộ mình, bây giờ mình chinh phục nó bằng thức ăn.
Một thời gian sau, khi về làm việc chung với một số người Pháp, tôi đã trổ tài nấu nướng và cho họ thưởng thức hai món độc đáo của Việt nam là chả giò và gỏi cuốn. Không rõ người Pháp thích hai món này như thế nào mà lại “rửa tội” cho chúng bằng hai cái tên nghe rất đài các là “Rouleau de Printemps” (món cuốn mùa Xuân” và “Rouleau Imperial” (món cuốn của vua chúa). Hai thứ này là những thức ăn phải luôn đi kèm với rau cỏ. Tôi hãnh diện giải thích cho họ rằng thức ăn Việt nam rất lành mạnh, bởi vì lúc nào cũng có khả năng làm cho thịt mỡ được trung hòa.
Tôi cũng quen một bạn trẻ người Anh mắt xanh tóc hoe chính hiệu. Anh chàng thích ăn thức ăn Việt nam đến độ tự mình loay hoay tìm hiểu, nấu nướng các thứ. Đến cái mục nước chấm thì chịu thua. Anh chàng bèn đến một nhà hàng Việt Nam quen thuộc và xin mua một ít nước chấm. Người chủ nghe anh trình bày, lấy làm thích thú liền tặng không anh một hộp nước chấm thật to, dặn anh cho vào tủ đá để ăn dần.
Mới đây, tôi cũng thấy “khoái chí” khi vào một “nursery” bán cây ươm gần nhà: Giữa các loại rau, tôi thấy trồi lên một chậu rau răm xinh xắn. Cầm cái chậu lên, tôi thấy có dán tên của rau răm bằng Anh ngữ: “Vietnamese herb”. Sau này, cứ mỗi lần vào các siêu thị, hễ thấy có rau răm thì tôi lại tìm đến để đọc cho bằng được cái tên “Vietnamese herb”. Tôi lại hãnh diện nghĩ thầm: “ít ra mình cũng đóng góp thêm một loại rau vào cái kho tàng rau cỏ của Úc đại lợi.”
Nói đến rau răm là trước tiên phải nói đến hột vịt lộn. Nếu tôi không lầm thì trên thế giới này có lẽ chỉ có hai dân tộc biết ăn hột vịt lộn là Phi luật tân và Việt nam. Không chừng trong cuộc Nam tiến, dân mình đã học được cái món ăn độc đáo này của người Phi luật tân. Đến Phi luật tân, du khách sẽ thấy hột vịt lộn được bày bán dọc đường và khắp nơi. Nhưng người Phi ăn một cách rất đơn giản: họ đập khẽ cái trứng, nặn vào đó một chút nước chanh calamansi, nhai cho hết rồi mới cắn một hột muối. Việt nam ta thì khác. Hễ nhắc đến rau răm thì phải nghĩ đến hột vịt lộn. Không thể ăn hột vịt lộn mà không có cái giống “cỏ Việt nam” này.
Không riêng gì với hột vịt lộn, cái thứ rau mà người ta nói là có tác động hạ hỏa và diệt dục này cũng có thể đi với rất nhiều món ăn khác như gỏi gà, bún bò, dưa chua v.v.
Nhưng rau răm không thôi chưa thể làm nên một vườn rau theo đúng nghĩa của người Việt. Tôi không biết và cũng không bao giờ có ý nghĩ “trồng cỏ” như một số người Việt nam ở Canada, Anh quốc hay gần đây tại Úc đại lợi. Làm giàu kiểu này thì có ăn bao nhiêu rau, lượng mỡ xấu trong máu hay áp huyết cũng không thể nào hạ thấp được. Và với cái tánh của tôi thì “cỏ” chưa lên, có lẽ tôi đã ngủm vì đau tim rồi.
Tôi không thích trồng quá nhiều một loại rau nhưng rất thích sưu tầm rau cỏ. Một phần vì muốn có một quê hương bỏ túi, một phần vì muốn cải thiện cái chế độ ăn uống thừa mứa thịt mỡ, nhưng lại thiếu chất xơ ở quê hương mới này. Hiện trong vườn rau của tôi có đến không dưới 15 loại rau cỏ khác nhau.
Muốn ăn rau luộc thì đã có mồng tơi, đọt lang, đọt su, bông bí và các thứ cải. Muốn làm các món cuốn như tôm thịt hay cá hanh nướng (dĩ nhiên phải là cá tôi câu về) thì lại có các thứ húng, hẹ, rau quế, tía tô, kinh giới, ngò rí, ngò gai, ngò tàu, dấp cá. Muốn nấu canh chua thì tha hồ mà dùng bạc hà, rau ôm, lá é. Và dĩ nhiên, muốn ăn gỏi thì lại có rau răm và bắp chuối. Thỉnh thoảng tôi cũng phá rào để tự thưởng cho mình một đĩa bít tết với xà lách non hay “xà lách xoong”. Nói chung, món nào vào rau đó.
Lúc nhỏ, như mọi đứa trẻ, tôi không thích ăn rau “sống”. Một phần vì trẻ nhỏ không thích cái vị đắng của rau, một phần vì cha mẹ sợ con cái phải đau bụng khi ăn đồ “sống sít”, nhứt là vào ban tối. Sau 75, khi tôi tập ăn rau cỏ, thì nó lại chán phèo: không thịt cá, làm sao có được chén nước kho ngon để chấm rau? Nhất là nó trở nên mỉa mai vì những món như bún thịt nướng, bún bò Huế giờ đây đã theo chân phở Bắc để biến thành…không người lái. Rổ rau trở nên vô nghĩa. Chỉ sau khi ra khỏi nước, như mọi người Việt tha hương, nhớ quê hương, nhớ hình ảnh luống rau sau nhà, nhớ những bữa cơm thanh đạm của người dân quê lấy rau làm chính, tôi mới thấy thích ăn rau cỏ và tự trồng rau ăn cho tiện vì xa chợ Việt. Thêm vào đó, tin ở hiệu năng “đốt mỡ” của rau cỏ, cho nên tôi lại càng ăn nhiều hơn. Đói ăn rau, đau uống thuốc. Rau cỏ hẳn đã góp phần “cứu nguy dân tộc” trong những thời kỳ đói kém và ngày nay tiếp tục là nguồn dược liệu quý hóa nếu không chữa bệnh thì ít nhứt cũng giúp cho người Việt nam tránh được chứng béo phì.
Tôi trồng nhiều rau cỏ không những vì tôi thích ăn rau, mà còn vì tôi xem cái vườn rau sau nhà là một nơi giúp tôi thiền niệm. Ai đó đã có lý để nói: “nếu bạn ở giữa thiên nhiên thì bạn không thể cảm thấy cô đơn.” Trong chương trình Costa’s Garden Odyssey trên đài truyền hình SBS gần đây, khán giả được xem quang cảnh thị trấn St Mary, Victoria một năm sau trận cháy rừng “Thứ Bảy Đen” năm ngoái. Một ngôi làng tạm thời giữa một khu hoang tàn còn đầy dấu tích của thần hỏa, được cất lên cho các nạn nhân tạm cư trong khi chờ đợi tái thiết nhà cửa. Giữa ngôi làng nhỏ, một thương gia đã có nhã ý tặng cho các cư dân một “Healing Veggie Garden” (tạm dịch: vườn rau giúp hàn gắn và chữa lành). Vị Mạnh thường quân đã dựng lên những bồn đất tốt và mang đến thật nhiều hạt giống và cây rau con. Nhìn cảnh tất cả mọi cư dân của thị trấn St Mary, từ em bé còn bồng trên tay đến những ông bà cụ già cùng vọc tay vào đất xốp mới đẹp và ý nghĩa làm sao! Vườn rau này chắc chắn không đủ cung cấp cho cư dân nhưng mọi người đều được mời gọi đến để chăm sóc, để nhìn thấy hạt mầm, chồi xanh vươn lên, để nhìn ngắm sự sống đang trở lại trong thiên nhiên và trong chính tâm hồn họ.
Tôi thích trồng rau đã lâu, nhưng chương trình này mang lại cho tôi nguồn cảm hứng lớn lao và củng cố niềm xác tín của tôi: mảnh vườn xanh là nơi thư giãn tốt nhứt. Thật vậy, ngồi trước màn ảnh vi tính hay truyền hình có lúc tôi cảm thấy mệt mỏi và chán nản; có những công việc độc điệu và nhàm chán; có những thú tiêu khiển cũng không cầm chân tôi lâu được. Vậy mà hễ ra vườn là tôi không muốn trở vô nhà nữa: tôi có thể thơ thẩn làm vườn hằng giờ mà không bao giờ thấy đủ. Quả thật, tôi không bao giờ cảm thấy chán khi “chiêm ngắm” rau cỏ và cây trái trong vườn.
Tôi rất tâm đắc với lời khuyên của tác giả Richard Carlson trong cuốn sách có tựa đề “Don’t Sweat the Small Stuff” (Đừng Bận Tâm vì Chuyện Lẻ Tẻ). Ông khuyên chúng ta nên chăm sóc cây cỏ trong vườn. Theo ông, một trong những điều kiện thiết yếu để có được sự thanh thản và an bình nội tâm là phải học yêu thương một cách “vô điều kiện”. Yêu thương một cách vô điều kiện là điều rất khó làm. Người mà chúng ta cố gắng yêu thương vô điều kiện không thể tránh nói hay làm điều sai trái hoặc, một cách nào đó, không đáp trả lại những mong mỏi của chúng ta. Chẳng có người bạn hay người yêu nào là hoàn hảo cả. Đã là người thì không thiếu sót điều này cũng bất cập điều khác. Chính vì vậy mà chúng ta thường thất vọng và đặt điều kiện để yêu thương: “Tôi yêu thương bạn, nhưng với điều kiện là bạn phải thay đổi; bạn phải cư xử như tôi mong muốn.”  Ngay cả cha mẹ cũng thường nói với con cái: “Con không ngoan thì cha mẹ không thương con.” Có khi cha mẹ hay các anh chị em “từ” một đứa con hay người thân của mình chỉ vì người đó sống hay làm ngược lại ý muốn của mình. Ít hay nhiều, chúng ta thường yêu thương với điều kiện. Mà một tình thương đích thực là một tình thương không đòi hỏi, không chấp nhứt, không ra điều kiện và vô vị lợi.
Chính vì con người thường không hội đủ những điều chúng ta mong muốn mà nhiều người thích yêu thương thú vật hơn yêu thương người khác. Nhưng ngay cả khi yêu thương thú vật một cách vô điều kiện cũng không phải là dễ dàng. Gặp phải con chó chứ nhè nửa đêm mà sủa inh ỏi không cho mình ngủ thì liệu ta có thương nó một cách vô điều kiện hay một cách dễ dàng không?
Cây cối và rau cỏ thì khác. Chúng không hề có bất cứ phản ứng nào trước cách cư xử của con người. Chúng cũng chẳng có đáp trả nào với tình thương hay sự thù hận của con người. Chúng là trường tốt nhứt để dạy con người yêu thương một cách vô điều kiện.
Hãy chăm sóc cây cối và rau cỏ. Hãy nói chuyện với chúng, dù chúng có tươi tốt hay héo tàn, có đâm hoa kết trái hay khô cằn. Chúng có thể là một vị thày tuyệt vời, bởi vì chúng không ngừng mời gọi chúng ta đi vào sức mạnh của tình yêu. (sđd trg.84)
Nhạc sĩ Lê Hựu Hà cũng có một lời khuyên tương tự. Ai mà chẳng thuộc và thích những câu hát của ông như: “Tôi muốn mình tìm đến thiên nhiên. Tôi muốn sống như loài hoa hiền. Tôi muốn làm một thứ cỏ cây. Vui trong gió và không ưu phiền.”
Mỗi khi ra vườn chăm sóc cây cối và rau cỏ, tôi không thể không cảm thấy dâng trào một niềm vui thanh thản như thế.
Cây cối và rau cỏ không những gợi lên cho tôi tình yêu vô điều kiện, chúng còn dạy tôi biết chấp nhận sự khác biệt của người khác. Ngày mới tập ăn tía tô, tôi khổ sở vì cái mùi “gián chết” của nó, trong khi vài người bạn “Bắc kỳ” thì “giẫy như đỉa phải vôi” khi ăn trúng một lá dấp cá. Vậy mà bây giờ, tôi “ghiền” tía tô và tất cả các loại rau thơm khác. Rổ rau sống giúp tôi suy nghĩ về sự khác biệt và tinh hoa của mỗi cá nhân. Tôi cũng cần có sự kiên nhẫn và chấp nhận “tập ăn thử” để có thể nhìn thấy được những đặc điểm quý hiếm nơi mỗi người quen lạ xa gần. Trong một cái gỏi cuốn, tôi nhét vào cả chục loại rau thơm. Vậy mà khi nhai trong miệng, tôi vẫn nhận ra được mùi vị riêng biệt của từng loại. Chúng hỗ tương cho nhau nhưng lại không bị lấn át bởi nhau. Và cũng như rau thơm, mỗi người đều có những khả năng riêng mà người khác không thể có hoặc thay thế.  Có những người tôi gặp giống như tía tô hay dấp cá, phải nhiều tháng, nhiều năm mới nhìn ra cái độc đáo của họ. Trong trường hợp ấy, tôi luôn lấy làm mừng vì nếu vội vã xét đoán, tôi đã lỡ dịp may quen được một “quý nhân” hay một “quái kiệt”.
Gần đây khi đi tìm nhà một người quen ở khu Balmain sang trọng và hiếm người Việt, đang phân vân giữa những căn chung cư đồng dạng, tôi chợt thở phào nhẹ nhõm, mạnh dạn tiến đến một căn nhà và bấm chuông. Tại sao? Chuyện thật đơn giản: vì tôi vừa nhìn thấy một chậu rau răm, ngò ôm và húng nhủi xanh tươi đong đưa trên hàng hiên.
Rổ rau Việt nam quả là mẫu số chung cho người Việt chúng ta tìm nhau và gặp nhau.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét