Chu Thập, 5/2010
.jpg)
Dòng tu “Tiểu đệ Chúa Giêsu” đã phát sinh từ lý tưởng
sống đơn sơ, nghèo nàn của linh mục Charles de Foucauld và chủ trương không
truyền đạo bằng một phương tiện nào khác hơn là chứng từ của cuộc sống âm thầm.
Nhà truyền giáo
người Bỉ thuộc dòng “Tiểu đệ Chúa Giesu” mà tôi quen đã sống ở Việt nam trước
năm 1975. Ông chia sẻ cuộc sống với vài anh em cùng dòng trong một khu lao động
nghèo tại Cần Thơ và sống độ nhựt bằng nghề thợ sơn. Mặc dù đã sống ở Việt nam
trên 25 năm và có quốc tịch Việt nam, nhưng sau 1975, ông vẫn bị trục xuất về
nước. Sau khi rời Việt nam, ông xin sang phục vụ tại Phi luật tân và qua đời tại
đó.
Có lần ông kể
cho tôi nghe về một chuyến đi Nhựt Bổn của ông. Vì sống trong một khu lao động
nghèo, cho nên những người anh em cùng dòng của ông không có phòng tắm riêng. Mỗi
buổi chiều, sau khi rời khỏi sở làm, anh em tu sĩ phải tìm đến một nhà tắm công
cộng để làm vệ sinh cá nhân. Tại đây, theo phong tục của người địa phương, mọi
người đều buộc phải mặc đồng phục của ông tổ “Adam”. Tôi mới hỏi ông: “Còn
thày, thày phải xoay xở như thế nào?” Ông đáp gọn bằng một giọng đặc sệt Nam bộ:
“Người ta sao tui dị!”
Tôi thầm phục lý
tưởng của các tu sĩ này. Họ chia sẻ cho đến cùng cuộc sống của người nghèo. Họ
không lên tiếng giảng dạy, truyền đạo hay chiêu mộ bất kỳ ai. Họ tự nguyện sống
nghèo và âm thầm trải nghiệm mọi bất trắc của kiếp sống nghèo.
Tôi nghĩ: hẳn phải
có một nhân cách lớn, con người mới có thể chọn một cuộc sống như thế. “Người ta sao tui dị!” trong trường hợp
của vị tu sĩ người Bỉ trên đây không phải là một chủ trương chạy theo đám đông
để đánh mất cá tính và bản sắc của mình. Trái lại, qua lý tưởng hòa đồng với
người nghèo cho đến cùng ấy, họ muốn thể hiện một nhân cách độc lập và kiên cường.
Kể từ khi rời khỏi
Việt nam, một trong những điều đắc thủ được mà tôi cho là quan trọng nhứt đối với
tôi không chỉ là cuộc sống ấm no, mà chính là được tự do suy nghĩ, tự do phát biểu
và dĩ nhiên tự do sống thật với lòng mình.
Lúc còn trong nước,
tôi nhận thấy khả năng suy nghĩ độc lập của mình bị “thui chột” đi nhiều. Dưới
chế độ toàn trị, những kẻ đang nắm quyền sinh sát trong tay độc quyền suy nghĩ
và phát biểu. Người dân chỉ biết vỗ tay theo lệnh và cũng nói theo lệnh.
Trong hồi ký “Chứng
Từ của Một Giám Mục”, cố giám mục Lê Đắc Trọng, giám mục phụ tá tổng giáo phận
Hà nội đã ghi lại những ngày đầu sau khi Cộng sản chiếm Miền Bắc như sau: “Các cuộc mít-tinh dần dần được tổ chức khắp
nơi, từ thành thị đến thôn quê làng xóm. Mít-tinh lớn, mít-ting nhỏ với những
bài diễn văn tràng giang đại hải. Sao mà người nào cũng nói trơn tru đâu ra đó,
lưu loát. Là vì đã có những công thức sẵn mà cách mạng đã đặt ra. Cứ lập một số
công thức là thành một bài. Người nào cũng nói như người nào, bài của ai cũng
giống nhau. Nghe mãi có bà già than thở: “Bao giờ thì hết cách mạng nhỉ?” Đối với
cụ bà, cách mạng là đọc diễn văn. Dù sao người ta cũng thu được ít nhiều kết quả
bởi các bài đó. Người ta thực hiện từng chữ phương châm của Voltaire, thi hào
Pháp: “Cứ nói dối, nói dối khỏe hơn nữa, thế nào cũng còn một cái gì” (Lê Đắc
Trọng, Chứng Từ của Một Giám Mục, nxb Diễn đàn giáo dân,Hoa kỳ trg 354).
Cái cảnh “học tập”
với những bài diễn văn tràng giang đại hải được đức giám mục Trọng ghi lại trên
đây tại Miền Bắc dĩ nhiên cũng đã và đang diễn ra tại Miền Nam sau tháng 4 năm
1975.
Tôi vẫn còn nhớ
như in, những ngày đầu, khi bị bắt đi “học tập”, phải nghe và phải hát bài “Giải Phóng Ca”, tôi chỉ biết gục mặt cúi
đầu. Nhưng “cứt trâu để lâu hóa bùn”, người ta sao tôi vậy, từ từ tôi cũng đi
vào “dòng chảy cách mạng” để hát, để
vỗ tay, để “làm bài thu hoạch”, để
phát biểu ca tụng cách mạng. Rồi dần dà, cách suy nghĩ và ngôn ngữ của tôi cũng
có giọng cách mạng lúc nào không hay biết. Người ta rêu rao “giải phóng”, mình
cũng lập lại “sau ngày giải phóng”.
Người ta chửi mình là ngụy quân ngụy quyền, mình cũng tự xưng là “ngụy quân, ngụy quyền”. Người ta lùa
mình vào trại lao động khổ sai, mình cũng tự nhận là “đi học tập cải tạo”.
Phải mất một thời
gian dài tôi mới gột rửa được cái “giọng
cách mạng” mà do sợ hãi và nhứt là vì bị đám đông lôi kéo tôi đã bị tiêm
nhiễm lúc nào không hay biết. Ngày nay, sống trong xứ sở tự do, lúc nào tôi phải
đề cao cảnh giác để không sống theo cái thứ triết lý “người ta sao tôi vậy” của
những người không chịu suy nghĩ bằng cái đầu của mình và phát biểu bằng cái miệng
của mình.
Tôi vẫn nhớ mãi
bài học mà Hans Christian Andersen, nhà văn Đan Mạch vào thế kỷ 19 muốn nhắn gởi
qua câu chuyện “chiếc áo mới của nhà vua”:
Một ông vua nọ thích mặc quần áo mới và đẹp. Ông đã tiêu phí gần hết tiền kho
mà không hài lòng về cách ăn mặc của mình. Thế rồi có hai người thợ may đến
trình diện và cam kết với nhà vua rằng họ có thể dệt được một cái áo mà chỉ có
những người “ngu” mới không nhìn thấy. Nhà vua lấy làm đắc ý, liền cho hai người
thợ may tiến hành công việc. Hai người thợ may cho dàn hai khung dệt, rồi giả vờ
làm ngày làm đêm. Tất cả những thứ lụa, chỉ bằng vàng y do nhà vua cung cấp, họ
đều dồn hết vào kho cất kín.
Nhà vua nóng
lòng muốn xem thử công việc dệt lụa đã đến đâu…Nhưng, nhớ lại rằng công việc
thêu dệt ấy sẽ biến mất trước con mắt của bọn ngu, cho nên nhà vua không dám
thúc bách. Ông vẫn tin rằng mình là bậc thông minh nhứt trên đời. Do đó, ông
không muốn đích thân đi mà chỉ sai người đến theo dõi công việc của hai người
thợ may. Người được nhà vua cử đến hãng dệt là một lão thần nổi tiếng là thông
minh trong triều đình. Đến nơi, không thấy gì ngoài hai khung cửi trống không,
lão thần lo nghĩ: “Lẽ nào mình là một thằng ngu”. Đang lúc ông đang phân vân
thì hai người thợ may hỏi dồn: “Thưa ngài, ngài nghĩ sao về tấm lụa này?” Ông
liền nhanh nhẩu đáp gọn: “Ồ đẹp lắm, đẹp lắm. Tôi sẽ về tâu lại với hoàng thượng.”
Lão thần vừa nói vừa sửa lại gọng kiếng mắt và lóng tai nghe hai người thợ may
giải thích về những đặc điểm của chiếc áo để ông về trình lại cho nhà vua.
Sau đó, nhà vua
còn sai thêm hai bậc công thần cũng nổi tiếng là thông minh và liêm chính. Hai
vị này cũng chẳng thấy gì ngoài cái hai cái khung trống không. Nhưng để tỏ ra
mình là người thông minh, hai vị cũng đành khen lấy khen để chiếc áo “vô hình”
và trở về tâu với nhà vua rằng không còn có thứ nào trên đời này sánh được với
chiếc áo ấy.
Cuối cùng chính
nhà vua cũng phải thân chinh đến nơi để xem xét chiếc áo mới của mình. Dĩ
nhiên, mặc dù không thấy gì, ông cũng phải khen lấy khen để để tỏ ra mình là
người thông minh.
Đến ngày đại lễ,
hai người thợ may liền đi giao hàng. Họ quỳ trước mặt hoàng thượng và tâu: “Lụa
này nhẹ như hơi gió, mặc nó vào mình nhẹ nhàng đến nỗi tưởng như không có mặc
quần áo.” Các quan đại thần có mặt đều rập tâu: “Thật chí lý! Thật chí lý! Lụa
này nhẹ làm sao!” Rồi họ nhìn nhau bỡ ngỡ, nhưng ai cũng muốn làm ra vẻ mình
không phải là đồ ngu.
Dĩ nhiên, theo
hướng dẫn của hai người thợ may, nhà vua phải cởi bỏ xiêm y để mặc chiếc áo vô
hình ấy. Trước khi bước ra trước công chúng, ông còn nhìn vào trong gương một lần
nữa và làm như thể mình đang mặc chiếc áo đẹp và quý giá nhứt trần gian.
Nhà vua ra trước
triều thần với chỉ trên người bộ áo lót và một quần lồng rất dị hợm. Nhưng không
một người nào dám cười. Rồi không hẹn mà ai cũng tấm tắc ca ngợi vẻ đẹp lộng lẫy
của chiếc áo.
Vào giữa lúc các
quan triều thần tung hô đức vua trong chiếc áo mới, thì thình lình từ trong đám
đông, một tiếng trẻ con vang lên với một tiếng cười giòn giã: “Vua đâu có mặc
áo mới đâu!”
Nghe nói, nhà
vua giật nảy người và tự nhủ: “Có lẽ đúng như vậy.” Nhưng cố trấn tĩnh, ông làm
ra vẻ bệ vệ oai nghi, trang trọng hơn trước và đi thật mau về cung điện, theo
sau một đám quan hầu cung kính nâng vạt áo “vô hình”. (x. Thu Giang Nguyễn Duy
Cần, Cái Cười của Thánh nhân)
Tác giả Nguyễn
Duy Cần bình như sau: “Trong những xã hội
tự xưng là tự do ngày nay, biết bao kẻ không bao giờ dám nghĩ theo mình và suốt
đời chỉ lấm la lấm lét nhìn kẻ xung quanh, vỗ tay khi nghe kẻ khác vỗ tay, nguyền
rủa khi nghe kẻ khác nguyền rủa…Họ có mắt, có tai, có miệng…nhưng có mắt mà
không dám nhìn theo mình, chỉ nhìn theo cái nhìn của thiên hạ; có tai mà chẳng
dám nghe theo cái nghe của mình, mà chỉ nghe theo cái nghe của kẻ khác; có miệng
mà chẳng dám nói theo mình mà chỉ nói theo cái thiên hạ đã nói.” (sđd)
Tôi không có gì
để thêm vào lời bình trên đây. Nhưng nghĩ đến cuộc sống nơi đất khách quê người,
tôi thấy cũng có thể rút ra được một bài học cho riêng mình. Người Việt mình vẫn
nói: “đáo giang tùy khúc, nhập gia tùy tục”.
Hội nhập vào xã hội mới là điều cần thiết. Xã hội văn minh tiến bộ và tự do
là một trường học vĩ đại. Cái vốn liếng hiểu biết “ếch ngồi đáy giếng” vốn đã
nghèo nàn, lại bị “hủ hóa” trong chế độ Cộng sản, cần được sàng lọc và làm cho
giàu thêm.
Sự hội nhập đòi
hỏi thái độ hòa đồng. Nhưng hòa đồng
không có nghĩa là phải hòa điệu. Cái
bản sắc được cha ông nhào nặn từ bao thời vẫn còn lưu chuyển trong văn hóa,
cách suy nghĩ, cách sống và tiếng nói của người Việt nam. Tôi vẫn hãnh diện về
bản sắc ấy và luôn trân quý bản sắc ấy. Do đó, hòa đồng với cuộc sống mới, tôi
vẫn cố gắng gìn giữ tinh thần độc lập trong cách suy nghĩ và cư xử của tôi. Sở
dĩ tôi phải không ngừng đề cao cảnh giác như thế là vì tôi biết rằng cái “đám đông” “Úc thò lò” xung quanh tôi
không phải lúc nào cũng “hay”, cũng “đúng”, cũng “tốt”. Nếu không giữ khoảng
cách ấy, tôi sợ rằng trong cố gắng “người
ta sao tôi dị!”, tôi cũng vỗ tay mà không biết tại sao mình vỗ tay, phát biểu
mà không biết tại sao mình phát biểu và cuối cùng sẽ không tránh khỏi tình trạng
lố lăng của ông vua và đám công thần chỉ vì muốn tỏ ra mình thông minh, mà phải
mặc hay tung hô cái áo vô hình dị hợm như câu chuyện trên đây.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét