Chu Thập, 15.8.14
Mỗi ngày, khi chạy bộ ra đầu ngõ, ở một góc đường gần đèn
xanh đèn đỏ, tôi thường chứng kiến một cảnh tượng rất cảm động: một cặp vợ chồng
cỡ tuổi tôi đứng trước nhà nhìn theo cô con gái bị “Đao” (Down Syndrome) đang đi
về một “cơ xưởng” đặc biệt dành cho người khuyết tật gần đó. Ánh mắt của hai vợ
chồng dõi theo cô gái cho đến khi bóng cô khuất hẳn trong khuôn viên của trung
tâm. Mỗi lần nhìn thấy cảnh tượng này, tôi cứ miên man với câu hỏi: cô gái khuyết
tật là gánh nặng hay là niềm vui của cặp vợ chồng này? Và câu trả lời của tôi
luôn nghiêng hẳn theo chiều hướng lạc quan: trên gương mặt và nhứt là ánh mắt của
cặp vợ chồng này, lúc nào tôi cũng thấy toát lên niềm vui và hạnh phúc.
Người bị bệnh “Đao” không chỉ mang lại niềm vui và hạnh
phúc cho gia đình. Họ còn là niềm cảm hứng cho xã hội, hoặc ít ra là cho tôi.
Tôi đã từng có ý nghĩ ấy trong một chuyến đi Hawaii cách đây cũng trên 20 năm.
Nói đến Hawaii là nói đến bãi biển Waikiki, con đường về đêm đẹp như mơ dọc
theo bãi biển, những vũ điệu mê hồn của các thiếu nữ bản địa, tiếng chào
“Aloha” thân tình của người dân địa phương, và là nơi không có rắn là thứ tôi sợ
nhứt trên đời... Nhưng với riêng tôi, kỷ niệm đẹp nhứt và đáng ghi nhớ nhứt lại
là trạm dừng chân ở một cửa hàng McDonald trong chuyến đi vòng quanh đảo. Lần đầu
tiên và cũng là lần duy nhứt trong đời, tôi thấy hầu hết các nhân viên phục vụ
trong tiệm ăn đều là những thanh niên thiếu nữ bị “Đao”. Ngoài khuôn mặt “giống
nhau như đúc”, họ chẳng có gì khác lạ nếu so sánh với người khác. Họ cũng hết
mình phục vụ khách hàng. Họ cũng niềm nở như mọi nhân viên. Họ cũng tự lực cánh
sinh như mọi người.
Cuộc “gặp gỡ” này đã hoàn toàn thay đổi cái nhìn của tôi
về những người bị “Đao”. Lúc còn trong
nước, tôi ít khi thấy có một “giống” người như thế. Trong cả làng tôi, chỉ có một
cô gái mắc chứng bệnh này. Gia đình cũng như người ngoài đều gọi cô là “T.
Điên”. Cách phát âm của cô khó nghe, nhưng cô luôn cố gắng diễn tả điều mình muốn
nói và có lẽ mọi người đều có thể liên lạc với cô một cách dễ dàng. Vào thời
đó, có lẽ vì những người như cô “T, Điên” không nhiều cho nên người ta chưa tìm
được một danh từ chung nào để đặt cho họ. Gọi họ là “điên”, nhưng thật ra những
người như cô “T. Điên” của tôi cũng chẳng
“khùng”, chẳng “điên” như một số người bị bệnh thần kinh hay tâm thần.
Mãi cho đến khi qua Pháp, tôi mới học được một từ mới đầy
miệt thị và kỳ thị để nói về những người như cô “T.Điên”. Thật vậy, người Pháp
gọi họ là “Mongolien”. Nếu Thành Cát Tư Hãn (1162-1227) mà sống lại, không những
ông sẽ đem quân sang cày xéo nước Pháp mà có lẽ cũng sẽ tru di tam tộc tất cả cái
dòng giống “Gà cồ” này thôi. Cũng may, nhờ bác sĩ người Anh John Langdon Down (1828-1896) mà
năm 1961, do đề nghị của Tổ Chức Y Tế Thế Giới “WHO”, những người mắc chứng
khuyết tật như cô “T.Điên” của tôi mới cắt hết mọi giây mơ rễ má với người Mông
Cổ để nhận một cái tên mới là “Đao” (Down Syndrome) và dĩ nhiên cũng được dành
cho một sự tôn trọng xứng với phẩm giá con người hơn.
Trong tâm trí tôi, người “Đao” đã hết “điên”, nhưng tôi sợ
rằng xã hội vẫn chưa hoàn toàn được “giải phóng” trong cái nhìn và cách đối xử đối
với họ. Câu chuyện của cậu bé “Gammy” mà một người mẹ Thái mang thai mướn đang
nuôi dưỡng gợi lại cho tôi cả một trang sử đau thương trong cách đối xử của xã
hội Úc hay đúng hơn của chính phủ Úc đối với người bị “Đao” và gia đình của họ.
Hồi tuần qua, người dân Úc không những đã mở rộng tấm lòng mà còn mở cả hầu bao
để giúp đỡ cậu bé Gammy, bởi vì họ lo sợ rằng đứa bé này có thể sẽ bị ruồng bỏ chỉ vì những khuyết tật của nó.
Nhưng trên News.com.au, số ra ngày Thứ Ba 12 tháng 8 vừa
qua, tôi lại đọc được một bài viết không khỏi khiến tôi đau lòng vì luật pháp
hiện hành của Úc Đại Lợi. Theo Luật Di Trú của Úc Đại Lợi có từ năm 1958, những
trẻ em bị “Đao” và những khuyết tật khác đương nhiên sẽ không được thường trú tại
Úc Đại Lợi vì bị xem như một gánh nặng tài chính đối với những người thụ thuế.
Chỉ cách đây vài năm, năm 2008, Luật này vẫn còn được
mang ra áp dụng cho một bác sĩ người Đức là ông Bernhard Moeller. Viên bác sĩ
này đã bị từ chối quy chế thường trú nhân tại Úc Đại Lợi chỉ vì ông có một cậu
con trai 13 tuổi bị bệnh “Đao”. Hành động này đã tạo ra nhiều làn sóng phẫn nộ
đến độ Quốc hội Liên bang đã phải cho thành lập một ủy ban để điều tra về cách
đối xử của Úc Đại Lợi đối với những người di dân bị khuyết tật. Cùng thời kỳ
đó, một nữ hộ sinh người Anh làm việc tại một bệnh viện ở Perth đã bị chính quyền
ra lệnh trục xuất chỉ vì bà cũng có một đứa con bị “Đao”.
Bác sĩ Moeller đã đưa cả gia đình từ Đức sang tiểu bang
Victoria, sau khi đáp lại lời kêu gọi của chính phủ Úc để trám chỗ trống do sự
thiếu hụt của chuyên viên y tế tại các vùng nông thôn. Nhưng sau hai năm làm việc
với giấy nhập cảnh tạm trú, Bộ Di Trú đã bác bỏ đơn xin thường trú của ông vì Luka,
cậu con trai mắc chứng “Đao” của ông bị xem như một gánh nặng cho xã hội Úc. Vợ
của bác sĩ Moeller, bà Isabella, nói với báo The Telegraph của Anh rằng “đây là
điều tệ hại nhứt xảy đến cho bà. Nó còn tệ hại hơn cả khi bà biết con trai mình
bị “Đao”.
Trước sự phẫn nộ của cư dân Horsham, nơi bác sĩ Moeller
đang phục vụ, Tổng trưởng Di trú lúc bấy giờ là ông Chris Evans đã phải đảo lộn
quyết định và yêu cầu duyệt xét lại trường hợp của Luka. Ông cũng bãi bỏ lệnh
trục xuất người nữ hộ sinh Anh có đứa con bị “Đao” tại Perth.
Năm 2012, Chính phủ Liên bang cho công bố phúc đáp trước
những đề nghị của ủy ban quốc hội điều tra về cách đối xử với những người di
dân bị khuyết tật. Lấy lý do mỗi người khuyết tật mỗi năm có thể “ngốn” của
chính phủ từ 21 đến 40 ngàn, chính phủ vẫn tiếp tục duy trì luật bác bỏ thường
trú đối với những người di dân khuyết tật. Nói tóm lại, theo luật hiện hành,
người di dân khuyết tật, cách riêng người bị “Đao”, vẫn bị xem như một gánh nặng
cho xã hội Úc.
Bà Catherine McAlpine, giám đốc điều hành của Tổ chức
“Down Syndrome Australia”, người cũng có một đứa con trai 13 tuổi bị “Đao”, nói
rằng luật di trú của Úc Đại Lợi vẫn còn được xây dựng trên lối suy nghĩ đầy
thành kiến và kỳ thị theo đó người bị “Đao” sẽ bòn rút tài nguyên của quốc gia”.
Theo bà, suy nghĩ như thế là không nhìn nhận sự đóng góp đáng kể và quý giá của
những người bị “Đao” và gia đình họ cho đời sống của cộng đồng và toàn thể quốc
gia.
Cũng theo bà McAlpine, luật di trú hiện hành của Úc Đại Lợi
vi phạm Công ước của Liên hiệp quốc về quyền của những người khuyết tật mà
chính Úc Đại Lợi đã phê chuẩn. Thật vậy, theo điều 18 của Công ước này “các quốc
gia phải nhìn nhận quyền của những người khuyết tật được tự do đi lại, tự do chọn
lựa nơi cư trú và quốc tịch, dựa trên căn bản bình đẳng với mọi người...”
Luật pháp, như bà McAlpine đã ghi nhận, thường chỉ xem
người khuyết tật như một gánh nặng cho xã hội, mà không nhìn nhận sự đóng góp
vô cùng quý giá của họ cho xã hội. Tôi nghĩ đến trước tiên nhà vật lý học lừng
danh của thế kỷ này là ông Stephen Hawking. Có ai đã đóng góp nhiều cho khoa học
hiện đại cho bằng con người khuyết tật ngồi xe lăn và hầu như không còn khả
năng liên lạc một cách bình thường với người khác. Nếu khoa học gia này, vì
nghĩ rằng mình chỉ còn là một gánh nặng cho xã hội, đã tự kết liễu cuộc sống của
mình như ông đã từng toan tính, thì thế giới hẳn đã mất đi một sự đóng góp lớn
lao chưa từng có cho sự tiến bộ của con người.
Tôi cũng nghĩ đến một người Úc sinh ra không có tay có
chân là ông Nick Vujicic. Ông đã chứng tỏ mình không những không là một gánh nặng
cho xã hội Úc, mà còn góp phần lớn lao vào việc xây dựng xã hội bằng cách xử dụng
ý chí, niềm tin, tinh thần lạc quan và nhứt là tình yêu thương của mình để mang
lại niềm cảm hứng và ý chí muốn sống đẹp cho không biết bao nhiêu người trên thế
giới này.
Nhà vật lý học Stephen Hawking, tuy mang khuyết tật,
nhưng vẫn còn có bộ não phi thường và cái đầu sáng suốt. Nick Vujicic, tuy
không lành lặn như mọi người, nhưng vẫn còn một ý chí phấn đấu mãnh liệt và một
trái tim cao thượng. Những người khuyết tật như thế không phải thuộc số nhiều
trong thế giới này. Đa số những người khuyết tật, nhứt là những người bị “Đao”
hoặc “tự kỷ” (Autism) mà tôi gặp gỡ mỗi ngày trong xã hội này có lẽ chẳng còn
khối óc và ngay cả một trái tim bình thường để gọi là góp phần xây dựng xã hội.
Họ không có gì khác ngoài sự hiện diện đầy khổ đau của mình. Nhưng với tôi đó
chính là sự cống hiến lớn lao nhứt mà những người khuyết tật có thể mang lại
cho xã hội. Họ hiện diện trong lòng xã hội để mang lại niềm cảm hứng cho người
khác. Họ có mặt giữa loài người để khêu gợi những tình cảm cao quý nhứt trong
con người là sự tôn trọng, sự cảm thông và tấm lòng trìu mến.
Thế giới ngày càng tiến bộ. Khoa học ngày càng làm được
những khám phá và phát minh mới. Các tiện nghi vật chất ngày càng gia tăng. Kho
tàng kiến thức của nhân loại ngày càng rộng lớn. Nhưng mãi mãi thế giới này
cũng vẫn bất toàn. Bệnh tật, khổ đau, bất toàn vẫn bám chặt vào kiếp người. Chỉ
có một điều chắc chắn mà tôi hằng tin tưởng là: thế giới này sẽ hoàn hảo hơn
không phải do những tiến bộ nhằm làm cho cuộc sống con người sung túc và thoải
mái hơn, mà chính là biết sống cho những giá trị cao quý hơn như tình liên đới,
sự cảm thông trước nỗi khổ đau của người đồng loại.
Nghĩ như thế cho nên tôi không chạy theo trào lưu chung để
xem người khuyết tật như một gánh nặng cho gia đình hay xã hội, mà thiết yếu
như một kho tàng vô giá. Hãy tưởng tượng nếu như tất cả mọi người đều khỏe mạnh,
thông minh, giàu có và hạnh phúc, chúng ta có còn lòng cảm thương và trìu mến
hay không? Nếu như ai đó đã nói “tương lai của nhân loại thuộc về lòng tấm lòng
trìu mến”, thì sự hiện diện của người khuyết tật chính là chìa khóa để mở ra
tương lai ấy.
Tôi đã cảm nhận được tương lai ấy mỗi khi nhìn thấy nụ cười
rạng rỡ, ánh mắt sáng ngời chiếu tỏa niềm vui và hạnh phúc của cặp vợ chồng mỗi
ngày ra ngõ đứng trông theo người con gái bị “Đao” đi làm. Cô gái quả là một
phúc lành cho hai vợ chồng và cho cả tôi nữa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét