Chu Thập, 26.5.10
Sự tương tác giữa
tinh thần và thể xác trong con người là điều không thể chối cãi, hiện đang là một
đề tài nghiên cứu vô tận và đầy hứng thú trong y khoa và tâm lý học. Niềm tin
nói chung và niềm tin tôn giáo nói riêng ảnh hưởng sâu đậm lên sức khỏe thể lý
của con người. Sức khỏe yếu kém có thể khiến cho con người bi quan. Nhưng niềm
tin và thái độ lạc quan lại giúp cho con người, nếu không thắng vượt bệnh tật,
thì cũng mang lại sức mạnh giúp họ đương đầu với bệnh tật. Nói chung tâm lý có
thể ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe của con người. Trong giới y học, người ta
thường nói đến “hội chứng áo trắng”: có người vừa bước vào phòng mạch đã thấy
tim đập rầm rầm. Có người chỉ cần ngửi cái không khí của bệnh viện hay thấy bác
sĩ, y tá trong chiếc áo choàng trắng, cũng đủ lo để tiết ra nhiều chất
Adrenaline khiến cho tim mạch đập nhanh và huyết áp tăng lên.
Tôi có quen với
một y tá làm ca đêm trong một viện dưỡng lão. Lúc nào trong cái xách “y cụ” của
chị cũng có một hộp kẹo “tic-tac” mầu trắng. Chị giải thích rằng cứ mỗi độ
trăng tròn thì luôn xảy ra “sự cố”: có cụ bà trên 80 vẫn còn tìm cách leo rào để
đi hẹn với bồ; có cụ đi khắp nhà vì mắc chứng hoang tưởng. Nói chung, cứ trăng
tròn thì các cụ lại mất ngủ. Nhiều cụ cũng còn một chút ý thức để biết mình khó
ngủ và xin y tá cho thuốc ngủ. Để tránh tình trạng lạm dụng thuốc ngủ, các y tá
thường trao cho các cụ một viên kẹo nhỏ như viên thuốc ngủ mà các cụ thường
dùng. Hiệu năng của viên kẹo không khác gì thuốc ngủ: chỉ vài mươi phút sau khi
“trịnh trọng” nuốt viên kẹo, các cụ cũng đi vào giấc điệp như mỗi lần uống thuốc
ngủ.
Trong y học, người
ta gọi viên “thuốc” mà chị y tá cho các cụ trong viện dưỡng lão uống để thay
thuốc ngủ là “Placebo”, tiếng Latinh có nghĩa là “tôi sẽ thỏa lòng”, tức “tôi
được trấn an, tôi cảm thấy an tâm.”
Khi đau yếu,
chúng ta tìm đến chuyên viên y tế để được chữa trị. Chúng ta đặt lòng tin nơi họ.
Có khi họ chỉ cho chúng ta một viên “Placebo”, tức một loại thuốc vô thưởng vô
phạt có tác dụng trấn an. Viên thuốc này có khi chỉ là chút bột trắng bọc đường.
Nhưng vì đặt niềm tin nơi bác sĩ, bệnh nhân uống thuốc đó với tất cả tin tưởng
và nhờ vậy cũng được lành bệnh như khi gặp được thần dược.
Năm 1955, bác sĩ
Henry K.Beecher, làm việc tại một bệnh viện thuộc tiểu bang Massachusett, Hoa kỳ,
đã thử nghiệm viên thuốc “Placebo” này và ông tin rằng viên thuốc này có công
hiệu nơi 30% bệnh nhân. Nhưng hiện nay, các chuyên gia tin rằng hiệu quả của
viên thuốc này có thể lên từ 70 đến 90%. Các nhà khoa học giải thích rằng viên
thuốc Placebo đã khơi dậy trong bệnh nhân ý muốn và khả năng sống lâu. Viên thuốc
này có thể giúp chữa trị được rất nhiều chứng bệnh. Một cuộc nghiên cứu của trường
đại học Ohio năm 1992 cho thấy loại thuốc “trấn an” này còn giúp chữa trị được
cả những trường hợp bị đau tim nặng.
Từ công hiệu của
viên thuốc Placebo này, các nhà khoa học tin rằng con người có khả năng tự lành
bệnh và ba yếu tố kích thích khả năng đó là: lòng tin tưởng và hy vọng của bệnh
nhân, niềm tin và tinh thần lạc quan của người thày thuốc, và mối liên hệ, tin
tưởng và tương kính giữa bệnh nhân và thày thuốc. (x. Tiểu Huyền, “Sống bình thản
với bệnh nan y”, Người Việt online 8/9/ 2005)
Trong ba yếu tố
trên đây, tôi đặt nặng mối quan hệ giữa bệnh nhân và thày thuốc. Tôi hiện có đến
5 ông “bác sĩ gia đình”. Tôi có nhiều bác sĩ gia đình như thế vì nhiều lý do.
Có ông tôi chỉ đến gặp ba lần và sau đó, không bao giờ trở lại nữa. Lý do rất
thực tiễn: cứ mỗi lần khám bệnh, ngoài Medicare, ông ta còn bắt tôi phải trả thêm
20 đô. Có hai ông mà tôi chỉ tìm đến khi không còn hẹn được với ai khác: một
ông thì hà tiện lời nói đến độ tôi có cảm tưởng như phải ra trước một ông quan
tòa, một ông thì chỉ “ừ hử” nghe tôi kể về bệnh trạng của tôi hơn là giải thích
cho tôi nghe về bệnh trạng của tôi. Một ông khác nữa mà tôi cho điểm “khá”,
nhưng lại mắc vào cái tật hay “đe dọa” làm cho tôi cứ tưởng mình như đang ở vào
thời kỳ cuối cùng của bệnh nan y. Duy chỉ có một vị được tôi thực sự tin tưởng.
Mặc dù phòng mạch của vị bác sĩ này cách nơi tôi ở khá xa, tôi vẫn luôn lặn lội
tìm đến. Cứ mỗi lần ra khỏi cửa thì tôi thấy mình như được khỏi bệnh một nửa.
Bác sĩ này không chỉ gặp tôi 5, 10 phút đủ để “kéo” medicare và cho toa, mà sẵn
sàng bỏ ra trên dưới 30 phút để giải thích cặn kẽ về bệnh tình của tôi, đưa ra
nhiều chọn lựa và khuyến khích tôi khép mình vào kỷ luật để chữa bệnh. Tôi luôn
cảm thấy lạc quan mỗi khi ra về.
Quả thật, “lương
y mà như từ mẫu” thì luôn mang lại tin tưởng và lạc quan cho bệnh nhân. Nhưng
dĩ nhiên, lạc quan hay không là do chính tôi; không ai có thể sống lạc quan
thay tôi.
Nhìn vào một tờ
giấy có vấy mực, có người chỉ thấy những chấm đen, có người lại chỉ chú ý đến
khoảng giấy trắng còn lại. Trong vấn đề sức khỏe cũng thế, người ăn mày “đổ ruột”
vẫn có thể tỉnh bơ ngước mặt nhìn trời, trong khi đó người nhà giàu mới “đứt
tay” đã ôm đầu tru tréo lên, cứ như tận thế đến nơi.
Có người do cấu
tạo tâm sinh lý tự nhiên dễ sống tin tưởng và lạc quan. Nhưng do trau dồi và
luyện tập, ai cũng có thể có được một tinh thần như thế. Là một người có niềm
tin tôn giáo, tôi tin rằng niềm tin tôn giáo luôn mang lại tin tưởng và lạc
quan cho tôi để đối phó với những khó khăn và thách đố trong cuộc sống, nhứt là
bệnh tật ốm đau. Tôi nghĩ đó là ý nghĩa của điều mà Chúa Giêsu thường khẳng định
mỗi khi chữa bệnh cho một người nào đó: “Lòng
tin của con cứu chữa con.”
Trong cuốn sách
có tựa đề “Sức Mạnh Chữa Trị của Niềm Tin”,
bác sĩ Harold Koenig viết rằng những người có niềm tin tôn giáo thường có cuộc
sống hôn nhân và gia đình vững chắc hơn, họ có thể đương đầu với trầm uất một
cách dễ dàng hơn, họ có thể sống lâu và khỏe mạnh hơn, họ cũng có thể có hệ thống
miễn nhiễm mạnh hơn…so với người khác.
Riêng về mối
liên hệ giữa niềm tin tôn giáo và cuộc sống lành mạnh, tác giả viết: “Tôi tin chắc là bạn sẽ đồng ý rằng các tôn
giáo lớn trên thế giới đều khuyến khích con người sống lành mạnh. Một số tôn
giáo còn xem việc kiêng khem hay điều độ như một tín điều. Những người Ấn giáo
cũng như Phật tử thuần thành là những người chỉ ăn chay (tức không ăn thịt cá).
Những luật về kiêng cữ trong cách ăn uống của Do thái giáo, đạo Kaskruth đã được
chép ra trong những cuốn sách đầu tiên của Kinh Thánh. Ít có người Hồi giáo đạo
đức uống rượu. Các tín đồ Mormon và Adventist tuân giữ sự điều độ trong cuộc sống
hằng ngày. Tất cả các tôn giáo có tổ chức đều lên án thói chè chén say sưa, các
quan hệ tình dục bừa bãi và bất cứ thói quen hay hành vi nào có hại cho thân
xác, vốn được xem như “thánh thiêng”, bởi vì được tạo thành theo hình ảnh của
Thiên Chúa.
Càng
ngày càng có nhiều cuộc nghiên cứu cho thấy những lợi ích về sức khỏe thể lý mà
những người có niềm tin tôn giáo thường hưởng được. Tôi đặc biệt chú ý đến những
cuộc nghiên cứu cho thấy rằng thiếu niên trong các gia đình thường tham dự các
buổi thờ phượng, cầu nguyện và đọc Kinh Thánh, ít uống rượu, hút thuốc hay sử dụng
ma túy bằng những người đồng tuổi không có tôn giáo. Nghiên cứu cũng chứng tỏ rằng
quan hệ tính dục ở tuổi thiếu niên cũng ít hơn nơi các thiếu niên thực hành tôn
giáo so với những người cùng tuổi ít thực hành tôn giáo” (Harold
G. Koenig, M.D, The Healing Power of Faith, Malcolm McConnell 1999, trg.723)
Chúng ta vẫn thường
nghe nói: tôn giáo nào cũng dạy con người “ăn ngay ở lành”. Một trong những thể
hiện của giới răn ăn ngay ở lành này chính là nếp sống lành mạnh. Và dĩ nhiên,
nếp sống lành mạnh nào mà không ảnh hưởng đến sức khỏe thể lý của con người. Có
người do di truyền phải mang nhiều bệnh tật. Nhưng phần lớn những căn bệnh
chúng ta mắc phải đều do cuộc sống thiếu lành mạnh. Ngoài ra, một cuộc sống
lành mạnh cũng giúp chúng ta phòng ngừa và chiến đấu một cách có hiệu quả chống
lại bệnh tật.
Trong các sinh
hoạt đặc thù của niềm tin tôn giáo, nổi bật nhứt là sự cầu nguyện. Người có niềm
tin tôn giáo là người cầu nguyện. Và một trong những điều các tín đồ tôn giáo cầu
xin nhiều nhứt là được khỏe mạnh hay khỏi bệnh.
Hiện nay các nhà
nghiên cứu đang cố gắng tìm hiểu ảnh hưởng của sự cầu nguyện đối với việc chữa
bệnh. Họ so sánh những người bị bệnh nặng đang được chữa trị bằng thuốc men
nhưng đồng thời luôn cầu nguyện hay được người khác cầu nguyện cho với những
người chỉ được chữa trị bằng thuốc men mà thôi. Năm 1988, kết quả của một cuộc
nghiên cứu đầu tiên được thực hiện tại bệnh viện đa khoa San Francisco, tiểu
bang California, Hoa kỳ cho thấy nhóm những người cầu nguyện và được cầu nguyện,
được lành bệnh nhanh chóng hơn nhóm bệnh nhân không cầu nguyện.
Hiệu năng của lời
cầu nguyện vẫn còn là một bí ẩn đối với y khoa. Rõ ràng nhứt là những trường hợp
xảy ra tại Lộ Đức bên Pháp. Ngày 11 tháng 2 năm 1858, một cô gái tên là
Bernadette Soubirous nói rằng cô đã được Đức Mẹ Maria hiện ra. Các cuộc hiện ra
đã diễn ra tất cả 19 lần. Trong một lần hiện ra, cô gái đã được hướng dẫn đến một
hang động gần đó để uống nước và rửa mặt từ một dòng nước vọt ra từ đó. Với hai
tay không, cô gái đã đào bới để biến dòng nước ấy thành một con suối nhỏ. Từ đó
cho đến nay, đã có không biết bao nhiêu người tìm đến dòng suối này để tắm gội
hay uống nước mà họ cho là linh nghiệm. Đã có không biết bao nhiêu người tự nhận
được khỏi bệnh một cách lạ lùng. Nhưng cho tới nay, Giáo hội Công giáo tại Pháp
chỉ nhìn nhận chưa tới 100 “phép lạ”, sau khi một Ủy ban y khoa giám định và
tuyên bố rằng việc lành bệnh không thể giải thích được về phương diện y khoa.
Những trường hợp được Ủy ban y khoa Lộ Đức xét nghiệm đều có những yếu tố như
sau: bệnh nhân thực sự có bệnh và đã
cùng đường chạy chữa, họ thực sự lành bệnh chứ không phải chỉ có ảo ảnh hay tưởng
tượng về sự lành bệnh. Ngoài ra, các cuộc nghiên cứu cũng xác nhận rằng nước tại
suối Lộ Đức không có bất cứ một dược tính đặc biệt nào. (x. Chester L. Tolson,
Ph.D và Harold G.Koenig, M.D, The Healing Power of Prayer, Baker Books 2003,
trg.30)
Trong cuộc sống
có những điều con người cảm nhận được nhưng không thể giải thích được. Khoa học
ngày càng vén mở được nhiều bức màn bí ẩn của cuộc sống. Nhưng chắc chắn, dù có
“thông thái” đến đâu, lý trí con người cũng không thể nào “hiểu” được sức mạnh
của lòng tin và sự cầu nguyện.
Là một người có
niềm tin tôn giáo, tôi tin ở sức mạnh của lòng tin và sự cầu nguyện.
Niềm tin tôn
giáo không đương nhiên làm cho tôi được thông minh, đĩnh đạt, và thuận lợi
trong cuộc sống, nhưng mang lại cho tôi niềm cảm hứng để phấn đấu và chuyên cần
học hỏi. Ở đây, thi hào Goethe của Đức đã có lý để nói: “Thiên tài là một sự kiên nhẫn lâu bền.”
Niềm tin tôn
giáo không đương nhiên mang lại may mắn thịnh vượng cho tôi, nhưng có thể thúc
đẩy tôi ra sức làm việc để tạo ra của cải cho tôi và người khác.
Niềm tin tôn
giáo không đương nhiên làm cho tôi khỏe mạnh, nhưng có thể khuyến khích tôi sống
một cuộc sống lành mạnh để phòng chống bệnh tật.
Do đó, mỗi khi
đau yếu tôi cầu nguyện. Tôi cầu nguyện không phải để được “phép lạ”. Hoặc giả nếu có phép lạ thì phép lạ đó chính là niềm tin
tưởng, tinh thần lạc quan và nhứt là sự thanh thản để đối phó với bệnh tật và
tiếp tục “cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy,
ta được thêm ngày nữa để yêu thương.” (Kahlil Gibran)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét