Trước trận thi đấu
nào của World Cup, tôi cũng đều đưa ra một dự đoán và hầu như dự đoán nào của
tôi cũng đều sai. Chỉ có hai lần, tôi dự đoán gần đúng: một là trận Brasil-Bắc
Hàn và hai là trận Đức-Úc ở vòng 1. Thật ra ai cũng đoán được đội hùng mạnh nhứt
là Brasil sẽ thắng Bắc Hàn và Đức sẽ thắng Úc một cách dễ dàng. Nhưng tỷ số do
tôi dự đoán quá sai biệt: tôi cứ tưởng Brasil sẽ “đè bẹp” Bắc Hàn và Úc không đến
nỗi bị hạ với một tỷ số 4-0 “thê thảm” như thế. May mà tôi không đánh cá, nếu
không thì chính tôi cũng “thua đậm”.
Quả thật, không
ai có thể làm tiên tri một cách chính xác trong bóng đá. Hơn bất cứ lãnh vực nào,
bóng đá là nơi mà không ai “học được chữ ngờ”. Có ai ngờ một đội “bí mật” và bị
xếp hạng thấp nhứt như Bắc Hàn lại có thể cầm cự một cách vẻ vang trước người
hùng Brasil. Có ai ngờ Đức lại bị một đội bị xem thường như Serbia hạ gục một
cách thê thảm. Và có lẽ cũng chẳng ai ngờ con bò tót Tây Ban Nha lại bỏ chạy
trước con chim bồ câu Thụy Sĩ. Chắc chắn từ đây cho đến hết mùa World Cup 2010
này, thế giới sẽ chứng kiến không biết bao nhiêu bất ngờ còn ngoạn mục hơn.
Thật ra, đó cũng
là luật “thường hằng” của cuộc sống. Thắng thua, được mất là chuyện thường
tình. Người Việt nam có lẽ dựa vào cái lẽ thường hằng ấy để tự an ủi: không ai
giàu ba họ, chẳng ai khó ba đời. Lịch sử nhân loại là một chuỗi những thăng trầm:
bao nhiêu đế quốc có hùng mạnh đến đâu rồi cũng sụp đổ. Hãy thử nhìn lại lịch sử
của đế quốc La mã. Augustus Octavus Cesar sinh năm 63 trước công nguyên và băng
hà năm 14 sau công nguyên, là người đã thiết lập một đế quốc được xem là cực thịnh
và hùng mạnh nhứt trong lịch sử nhân loại. Nhưng thăng trầm là luật bất biến của
lịch sử. Vào thế kỷ thứ tư, đế quốc này bắt đầu chia năm xẻ bảy. Ai có thế lực
binh quyền, người đó tự xưng là hoàng đế. Một trong những vị tướng lãnh nổi tiếng
vào thời đó là Maxenxius. Ông đã trấn áp các tướng lãnh khác và lên ngôi hoàng
đế. Loạn lạc nổi tên tứ bề. Constantinus, một tướng lãnh khác không hàng phục,
đã đứng lên tranh giành ráo riết với Maxenxius. Hai bên dàn quân đấu mặt nhau
dưới chiến lũy thành La mã. Đêm trước khi giao tranh, Constantinus nằm mơ thấy
một lá cờ có hình thánh giá với hàng chữ bằng tiếng La tinh “In hoc signo vinces” (cứ dấu này mà
ngươi sẽ chiến thắng). Sáng ra, ông cho quân đội may lá cờ có hình thánh giá và
viết hàng chữ ông thấy trong giấc mơ. Như một phép lạ, Constantinus đã chiến thắng
một cách dễ dàng. Tin ở sức mạnh của biểu tượng Kitô giáo đã từng bị đế quốc
triệt hạ, sau khi lên làm hoàng đế, Constantinus đã ban hành sắc chỉ ngưng bách
hại Kitô giáo. Mười năm sau, ông chính thức gia nhập Kitô giáo và nhường thủ đô
La mã của mình cho vị thủ lãnh của Giáo hội làm giáo đô. Về phần mình, ông cho
dời thủ đô của đế quốc sang Hy lạp, cho xây dựng một thủ đô mới tại thành
Byzance và lấy tên là Constantinople, nghĩa là thành phố của hoàng đế
Constantinus. Nhưng năm 1453, quốc vương hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ Mahomet II đã tấn
công chiếm được thành Constantinople và từ đó đổi tên thành Istanbul cho đến
ngày nay.
Lịch sử của đế
quốc hùng mạnh nhứt trong lịch sử nhân loại quả là lịch sử của một chuỗi những
bất ngờ. Có ai ngờ một người dân chài vô danh miền Galilea, Palestine tên là
Phêrô đã chịu chết treo trên thập giá tại thủ đô của đế quốc La mã để rồi cuối
cùng chinh phục được toàn đế quốc ấy. Có ai ngờ một đế quốc lẫy lừng như La mã
cuối cùng đã sụp đổ, biến mất khỏi bản đồ thế giới và chỉ để lại những vết tích
hoang tàn đổ nát.
Cách đây 20 năm,
có lẽ thế giới cũng không ngờ rằng cái khối cộng sản Đông Âu và đế quốc đỏ Liên
Xô tưởng là “muôn năm” ấy cũng sụp đổ như những con cờ Domino.
Bà Huyện Thanh
Quan, khi đứng trước di tích hoang phế của thành Cổ Loa, đã phải thốt lên: “Nghìn năm gương cũ soi kim cổ. Cảnh đấy người
đây luống đoạn trường.” Suy ngẫm về cuộc đời dâu bể, bể dâu, làm sao không
khỏi thốt lên: “Nào ai học được chữ ngờ.” ( x.Táo Lé, Chuyện Đời, Dân Chúa Âu
Châu 2002, trg 338-339)
Sân cỏ hẳn là
nơi để kiểm nghiệm cái luật “dâu bể” ấy của cuộc đời. Không ai đoán trước được
kết quả của những trận đấu và nhứt là ai cũng biết rằng thắng thua là chuyện
đương nhiên phải xảy ra trong các trận thi đấu. Làm gì thì làm, cuối cùng cũng
chỉ còn lại một đội vô địch. Lần lượt trong 31 ngày thi đấu, sớm hay muộn, lúc
nào cũng có những đội sẽ rời Nam Phi để xách gói lên đường “hồi hương” với hai
bàn tay trắng. Đã biết cái định luật chơi “tàn nhẫn” ấy, vậy mà vẫn có những phản
ứng trông buồn cười.
Trong bất cứ trận
thi đấu nào, tôi không chỉ theo dõi và tán thưởng những pha gây cấn và ngoạn mục
trên sân cỏ, mà cũng để tâm quan sát phản ứng của khán giả. Các ống kính truyền
hình thường “thu tóm” được những khoảnh khắc “lịch sử” rất đáng nghiền ngẫm. Ở
đây là những tiếng hò hét reo mừng long trời lỡ đất. Đằng kia là những bộ mặt
tiu nghỉu tưởng như có người thân qua đời. Tương phản nhứt là bộ mặt của các huấn
luyện viên: một bên là nụ cười tự hào đắc thắng, một bên là bộ mặt đưa đám ma rầu
rĩ.
Nhìn cái cảnh kẻ
khóc người cười ấy, tôi lại nghĩ đến câu nói quen thuộc: “Nỗi đau của người này là niềm vui của người khác.” Trước hết,
chúng ta có thể nghĩ đến cái đau xé ruột gan khi vượt cạn một mình của người mẹ
và tiếng khóc chào đời của thơ nhi. Nỗi đau và tiếng khóc ấy lại mang đến những
tiếng cười chào đón vỡ lở của người thân.
Chúng ta cũng có
thể nghĩ đến bao nhiêu âm thầm đau khổ của cha mẹ cho con cái, của những người
ngày đêm xả thân hy sinh vì người khác.
Nhưng bên cạnh
những tiếng cười trổ sinh từ hy sinh cao cả ấy, có biết bao nhiêu nụ cười chỉ nở
rộ trên sự đau khổ của người khác. Từ những tiếng cười man rợ của một bạo chúa
Nero khi ra lệnh thiêu đốt thành La Mã để có cớ bách hại các tín hữu Kitô tiên
khởi, từ những mãn nguyện độc ác của một Tần Thủy Hoàng khi đốt sách chôn học
trò cho đến những vũ điệu ma quái của những
đồ tể như Hitler, Stalin, Mao Trạch Đông, Polpot và tất cả những lãnh tụ cộng sản
khi sát tế hằng trăm triệu người vô tội trên bàn thờ xã hội chủ nghĩa…trong lịch
sử nhân loại, đã và mãi mãi vẫn có những con diều hâu chỉ biết truy hoan trên
xác chết của người đồng loại.
Thật ra, những
con diều hâu bay lượn trên xác chết ấy không đơn độc một mình. Các bạo chúa cười
cợt trên cái chết của người đồng loại hẳn không hành động một mình. Hitler làm
gì có đến ba đầu sáu tay để có thể sát hại đến 6 triệu người Do thái và gây ra
bao nhiêu đau thương tang tóc cho cả thế giới. Bên cạnh ông, không chỉ có những
tướng lãnh ngày đêm răm rắp tuân hành mệnh lệnh, mà còn có cả những anh giáo
làng, những ông hàng thịt, những người nông dân chất phác…bỗng một buổi sáng
nào đó cũng đứng lên hô hào đi săn lùng những người láng giềng của mình. Bên cạnh
những Stalin, những Mao Trạch Đông, những Polpot hay những Hồ Chí Minh cũng có
cả một bây diều hâu con nhào vô ăn có trên cái mâm cỗ “máu đổ thịt rơi” của người
đồng loại.
Xét cho cùng,
trong thâm cung sâu thẳm của cõi lòng, dường như ai cũng có thể cười trên nước
mắt, nỗi đau của người đồng loại. Đừng nói đến những con người mà ông tổ của chủ
nghĩa Marxit đã xếp vào hàng “súc vật quay mặt làm ngơ trước nỗi khổ đau của
người đồng loại để chỉ biết chăm sóc cho bộ da của mình”, trong mỗi người chúng
ta vẫn luôn tồn tại cái khuynh hướng muốn lấy tiếng khóc và nỗi đau của người
khác làm niềm vui và hạnh phúc của mình. Chỉ cần một chút hồi tâm và thành tâm,
có lẽ ai trong chúng ta cũng có thể nhận ra con người “thật” của mình. Đó là
con người chỉ cảm thấy hạnh phúc không phải vì giàu có mà vì giàu có hơn người
khác, không phải vì có cái nhà, mà vì có cái nhà rộng lớn, đẹp đẽ và sang trọng
hơn người khác, không phải vì có một cái xe để làm phương tiện di chuyển, mà vì
có một cái xe đắt tiền hơn cái xe của người hàng xóm, không phải vì có một mảnh
bằng, mà vì có một học vị cao hơn người khác, ngay cả không phải vì một cái áo để “ăn chắc mặc bền”,
mà chỉ vì cái hiệu nổi tiếng mà người khác không có…Tựu trung, xem ra niềm hạnh phúc của chúng ta thường tỷ
lệ thuận với sự thua kém hay bất hạnh của
người khác.
Ai cũng muốn sống
hạnh phúc. Ai cũng đi tìm hạnh phúc. Nhưng thế nào là “hạnh phúc”? Bàn đến vấn đề “hạnh phúc”, nhà văn Lâm Ngữ Đường
của Trung Hoa luận như sau: “Trên thế giới
này, hạnh phúc rất thường có tính tiêu cực: không đau khổ, không bị sỉ nhục, khổ
hạnh, không có bệnh tật. Nhưng nhiều khi nó tích cực và lúc đó ta gọi nó là
hoan lạc. Chẳng hạn, đối với tôi, những lúc như vầy là những lúc thật sung sướng:
ngủ một đêm thẳng giấc, sáng dậy hít không khí đầy phổi và muốn hít vô cho thật
sâu; lúc đó tôi cảm thấy nhẹ nhàng, như có cái gì lưu thông ở ngoài da và bắp
thịt nơi ngực và tôi khoan khoái muốn làm việc; hoặc chân gác lên một chiếc ghế,
thuốc cháy từ từ trong ống điếu; hoặc một ngày hè đi chơi, khát khô cả cổ, bỗng
gặp một dòng suối trong mà chỉ nghe tiếng nước róc rách cũng đủ thấy khoái rồi,
chạy lại, cởi giày ra, dầm chân trong dòng nước mát, thú tuyệt; hoặc sau một bữa
ăn thật ngon, tôi ngả mình trong chiếc ghế bành, chung quanh không có một người
nào mà tôi ghét cả, cùng nhau mạn đàm bâng quơ, vô mục đích.” (Lâm Ngữ Đường,
Một Quan Niệm về Sống Đẹp, bản dịch của Nguyễn Hiến Lê, trg 117-118)
Trên đây là một
trong rất nhiều quan niệm khác nhau về hạnh phúc. Riêng tôi, là một tín hữu
Kitô, tôi luôn cố gắng sống theo giáo huấn của Chúa Giêsu về hạnh phúc. Dường
như trong bài giảng đầu tiên của Ngài, Chúa Giêsu đã đưa ra một bí quyết về hạnh
phúc. Ngài nói: Phúc cho những người nghèo khó, phúc cho những người hiền lành,
phúc cho những người xây dựng hòa bình, phúc cho những người bị bách hại vì
công lý v.v…Dường như bí quyết sống hạnh phúc nào cuối cùng cũng đều gắn liền với
quan hệ với người khác. Xét cho cùng, không thể có hạnh phúc thực sự nếu chối bỏ
quan hệ với người khác. Cái bí quyết sống hạnh phúc ấy cuối cùng được Chúa
Giesu tóm gọn trong khuôn vàng thước ngọc là “Cho thì hạnh phúc hơn nhận lãnh”.
Ngạn ngữ Latinh
có nói: “Không ai cho cái mình không có.”
Cần phải “có” mới có thể “cho”. Nhưng tiền bạc, của cải vật chất không phải là
điều duy nhứt chúng ta “có”. Nếu không có ai giàu có đến độ không có gì để lãnh
nhận từ người khác và cũng không ai nghèo đến độ không có gì để trao tặng, thì
quả thật ai trong chúng ta cũng có nhiều kho tàng để chia sẻ cho người khác.
Không cứ phải có của cải vật chất mới có thể trao tặng. Chúng ta có vô số điều
quý giá hơn của cải vật chất. Chúng ta có thể trao ban một nụ cười. Chúng ta có
thể trao tặng một chút thời gian hay một chút không gian. Chúng ta có thể chia
sẻ một cử chỉ khích lệ, một sự hiện diện, một lời nói ủi an. Chúng ta có thể
san sớt một gánh nặng…Bao nhiêu quan tâm đến người khác là bấy nhiêu món quà
dành cho họ. Thánh Phaolô, một trong những nhà tư tưởng đầu tiên của Kitô giáo,
đã gói trọn cái bí quyết sống hạnh phúc ấy trong công thức: “vui với người vui, khóc với kẻ khóc.”
Là người xem nước
Úc là quê hương thứ hai, tôi chia sẻ và thấu hiểu tâm tình của người Úc khi chứng
kiến đội Socceroo bị “tàn sát”. Mỗi giây phút còn lại của trận đấu sau trái thứ
tư lọt lưới đối với tôi chẳng khác gì những giây phút phải chứng kiến người
thân của mình bị…tra tấn sống mà trói tay không làm gì được. Tôi cũng hiểu và
thông cảm tâm trạng của người dân Nam Phi chán nản bỏ ra về trước tiếng còi kết
thúc khi đội nhà bị “cùng chung cảnh ngộ” trong trận Nam Phi-Uruguay. Dù biết
Socceroo không thể nào thay đổi thế trận, nhưng tôi vẫn muốn theo dõi đến phút
chót. Bởi tôi tin rằng, “chia vui” thì không bao giờ tốt hơn “xẻ buồn”. Đó cũng
chỉ là một sự khích lệ quá nhỏ giữa người với người mà tôi có thể thực hiện được
trong mùa World Cup 2010 này với những đội banh “dưới cơ” vậy.
Chu Thập, World Cup 2010
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét