Thứ Năm, 10 tháng 7, 2014

Những Con Bò Vàng


                                                                                

World Cup nào qua đi cũng để lại trong tôi một vài tên tuổi đáng nhớ. Nhưng lần này, tuyệt nhiên tôi thấy chẳng có ngôi sao nào ngoài “ông thần bạch tuộc” Paul. Chính ông thần này mới thực sự là cầu thủ số một của thế giới: tất cả 8 cú “sút” của ông đều chính xác. Ông xứng đáng lãnh chiếc cúp vô địch thế giới năm 2010.
Theo báo Le Monde, phát hành tại Pháp, thị trấn O Carballiaeo của Tây Ban Nha, nơi mà hằng năm có “Liên Hoan Bạch Tuộc” vào tháng 8, muốn mua lại ông thần này. Sau khi ăn mừng chiến thắng vô địch thế giới của đội tuyển quốc gia, thị trấn này đã quyết định trao tặng tước hiệu “công dân danh dự” cho “ông thần bạch tuộc” Paul. Thị trưởng O Carballaaeo tuyên bố với báo chí rằng ông hy vọng sẽ mời Paul đến tham dự “Liên Hoan Bạch Tuộc” của thị trấn. Nhưng xem ra lời mời này khó có thể thực hiện được, bởi vì hiện Paul đã trở thành một “siêu sao” của cả thế giới chứ không riêng Tây ban Nha.
Theo  nhiều nguồn tin báo chí, doanh gia tại vùng Galice, Tây Ban Nha đã quyên góp được khoảng 30 ngàn Âu kim để mua lại Paul. Nhưng có lẽ dự định này cũng sẽ không thành, bởi vì hiện Paul đang “nghỉ hưu” tại Đức, là nơi mà người ta nghĩ là những ngày cuối đời của “ông” không còn bao nhiêu nữa, bởi  năm nay “ông” đã được 2 tuổi rưỡi và trên nguyên tắc, “ông” chỉ còn sống được 6 tháng nữa mà thôi. Thôi, cứ để cho “ông” an hưởng “tuổi già” tại “tư gia” của ông. Biết đâu sang Tây Ban Nha, người ta lại chẳng cho ông vào…chảo bởi vì “bạch tuộc xào với dầu ôliu và khoai tây” (pulpo a la Gallega) là một món khoái khẩu của dân xứ bò tót.
Tôi mong sao “ông thần bạch tuộc” Paul sống thêm vài năm nữa, ít nhứt là tới World Cup 2014. Tuy nhiên, nghĩ đến ông, tôi lại thấy số phận của hai nhà hải dương học có công “lăng xê” ông lên thật là hẩm hiu. Xem ra trong chuyện này, ít có ai nghĩ đến sáng kiến độc đáo của họ. Tất cả danh dự đều được dành cho Paul. Thật là oái oăm: Thú vật đã qua mặt con người!
Chuyện của “ông thần bạch tuộc” Paul ở Đức khiến tôi liên tưởng đến một con thú khác cũng rất nổi tiếng hiện nay tại Hoa kỳ. Đó là con chó tên “Faith” (Niềm tin). Con chó này chào đời vào giữa đêm Giáng Sinh năm 2002. Nó chỉ có hai chân sau. Mẹ nó đã ruồng bỏ không cho nó được bú mớm. Chủ nhân của con vật đáng thương này nghĩ rằng nó không thể nào sống được nên vứt nó vào thùng rác. Nhưng may cho nó, một người đàn bà tên Jude Stringfellow đã nhặt được và mang nó về nuôi dưỡng. Bà Stringfellow tin rằng bà có thể cứu sống nó. Chính vì thế mà bà đặt cho nó cái tên là “Faith”. Niềm tin ở đây không hẳn là của con vật mà là của chính bà.
Đúng như tên bà Stringfellow đã đặt cho con chó tật nguyền, 6 tháng sau, nhờ sự tận tụy nuôi nấng và huấn luyện của bà, Faith đã có thể đi bằng hai chân sau và chạy nhảy tung tăng. Nó thích được cho đến công viên để nô đùa với đàn ngỗng trời. Và dĩ nhiên, đi đến đâu, con thú cũng trở thành trọng tâm chú ý của mọi người. Ai cũng yêu thương trìu mến nó.
Sự hiện diện của Faith mang lại cảm hứng và an ủi cho nhiều người. Faith thường được mang vào bệnh viện để nâng đỡ những người lâm trọng bệnh. Sự xuất hiện của nó giúp cho các bệnh nhân giữ vững được niềm tin và tăng thêm lòng can đảm để chống lại bệnh tật.
Người ta cũng mang Faith vào các trung tâm cải huấn thiếu niên để mang lại cảm hứng cho các em: nhiều em lên tinh thần khi nhìn thấy con vật. Nó cũng trở thành “cố vấn tâm lý” cho một số thương binh bị khủng hoảng vì chiến tranh. Dĩ nhiên, có lẽ không nơi nào Faith mang đến được nhiều nụ cười rạng rỡ cho bằng các viện dưỡng lão mỗi khi nó viếng thăm.
Faith nổi tiếng đến độ có cả một website riêng; mỗi tháng số  người xem lên đến cả 75 ngàn lượt và mỗi ngày Faith nhận được trên 300 emails của các fans hâm mộ.
Danh tiếng của Faith lại càng nổi lên hơn khi tạp chí “People Weekly Magazine” đưa hình ảnh của nó lên trang bìa số cuối năm 2008. Lần đầu tiên, “nhân vật” xuất hiện trên trang bìa của tờ báo nổi tiếng này là một con chó!
Ngay cả một nhựt báo nghiêm túc như tờ Washington Post cũng không tiếc lời “tung hô” con vật: “Sự ra đời của con vật là một động lực mạnh mẽ cho đất nước đang gặp nhiều sự xáo trộn này. Bản thân con vật mang nhiều nỗi bi thương nhưng nó đã mạnh dạn đứng dậy và nhìn đời với sự bao dung và hạnh phúc. Tên của nó là Faith (Niềm tin). Đó là một con chó đứng bằng hai chân sau và có thể hiên ngang tiến bước như tất cả mọi người trong xã hội này.” (x. Faith (dog), Wikipedia)
Với những dòng trên đây, tôi cứ tưởng mình đang đọc tiểu sử của một nhân vật lỗi lạc nào đó trong lịch sử nhân loại. Dĩ nhiên, hình ảnh của con chó đi bằng hai chân này gợi lên cho tôi những tâm tình cao đẹp như sức phấn đấu, lòng kiên nhẫn và nhứt là sự tôn trọng và yêu thương đối với những người khuyết tật. Tôi không phải là người “thù ghét súc vật”. Tôi cũng chẳng chống lại việc yêu thương chăm sóc “thú cưng”. Nhưng tôi có cảm tưởng rằng, cũng như số phận của hai nhà hải dương học Đức trên đây, người ta quên mất một nhân vật rất quan trọng trong câu chuyện: đó là bà Jude Stringfellow, người “mẹ nuôi” đã có công “dưỡng dục” và huấn luyện cho Faith biết đứng thẳng và đi bằng hai chân. Trong cuốn sách có tựa đề “With a Little Faith” (Với một chút niềm tin), bà Stringfellow đã kể lại lòng yêu thương, sự kiên nhẫn và dĩ nhiên “niềm tin” của bà trong việc huấn luyện Faith. Nếu phải đề cao thì hẳn phải đề cao “tấm lòng” và “niềm tin” của bà Stringfellow mới phải!
Chuyện “ông thần Bạch Tuộc” Paul và con chó Faith trên đây lại gợi lên cho tôi một con thú được tôn vinh khác, có lẽ xưa và nổi tiếng nhứt trong lịch sử nhân loại: “Con Bò Vàng” của người Do thái. Kinh Thánh Cựu Ước của Do thái và Kitô giáo thuật lại rằng sau khi thoát khỏi Ai cập và lang thang trong sa mạc trước khi vào Đất Hứa, người Do thái cũng muốn có một “vị thần” riêng để thờ như các dân tộc khác. Thế là thừa lúc ông Môisen, người lãnh đạo thành công cuộc “xuất hành” ra khỏi Ai Cập, đang bận đàm đạo với Thiên Chúa trên núi cao, dân chúng quyên góp tất cả vòng vàng nữ trang rồi đúc thành một con bò và sấp mình thờ lạy nó. Từ đó, “con bò vàng” này đã trở thành biểu trưng của một thứ tôn giáo mà người ta gọi là “tôn thờ ngẫu tượng”. Tức là, thay vì tôn thờ một Thiên Chúa Tạo Hóa, người ta lại sấp mình thờ lạy một tạo vật. Tạo vật ấy có thể là một tượng thú vô tri. Tạo vật ấy cũng có thể là bất cứ “của đời chóng qua” vô thường nào trên trần gian này. “Con bò vàng” của thời đại ngày nay có thể là tiền bạc, bằng cấp, kinh tế, quyền lực, danh vọng, sắc đẹp, thể thao, sức khỏe v.v. Con người có thể sấp mình thờ lạy, tung hô “con bò vàng” này và hy sinh tất cả mọi sự vì nó.
Dĩ nhiên, một khi trật tự các giá trị bị đảo độn, một khi những của phù hoa trở thành tuyệt đối, thì chính giá trị cao cả nhứt là con người bị khinh rẻ hay quên lãng. Trong cái trật tự bị đảo lộn ấy, vật chất được đặt lên trên tinh thần và có khi sinh mệnh của thú vật lại được xem trọng hơn sự sống của con người. Tựu trung, như văn hào Nga Alexander Solhenitsyn đã nói, con người gạt bỏ Thượng Đế ra khỏi cuộc sống của mình để tôn thờ các “con bò vàng”.
Năm 1983, trong diễn văn đọc khi nhận giải thưởng “Templeton” về những đóng góp trong việc thăng tiến các giá trị tôn giáo và tinh thần, nhà văn này đã phát biểu: “Cách đây hơn nửa thế kỷ, khi còn là một đứa trẻ, tôi đã nghe người lớn giải thích về những đại họa đã giáng xuống nước Nga như sau: “Con người đã quên lãng Thiên Chúa; đây là lý do xảy ra mọi điều đó.” Kể từ đó, tôi đã trải qua 50 năm để nghiên cứu về lịch sử cuộc cách mạng của chúng tôi. Trong cố gắng ấy, tôi đã đọc hằng trăm cuốn sách, thu thập hằng trăm chứng từ của các cá nhân và viết được 8 cuốn sách để cố gắng “thu dọn” cái đống “xà bần” do cuộc nổi dậy ấy tạo ra. Nhưng ngày nay, nếu có ai bảo tôi phải cô đọng lại nguyên nhân chính của cuộc cách mạng tàn bạo đã nuốt trửng mạng sống của 60 triệu đồng bào của dân tộc chúng tôi, thì tôi không thể không lập lại một cách chính xách hơn rằng: “Con người đã quên lãng Thiên Chúa. Đây là lý do xảy ra mọi điều đó.” (Philip Yancey, Soul Survivor, Hodder & Stoughton, London 2001, trg 183)
Chủ nghĩa vô thần thường được tuyên xưng như là một thứ “tôn giáo” trong các chế độ Cộng sản đã và đang tế sát bao nhiêu sinh linh trên bàn thờ xã hội chủ nghĩa như thế nào thì đã rõ. Khi “con thú” trong con người được lên ngôi thì đương nhiên nó phải đánh đổ cái phần nhân bản trong chính mình cũng như nơi người đồng loại.
Ngày nay, cho dẫu cái chủ nghĩa ấy không còn được hung hãn tuyên xưng và rao giảng nữa, nhưng cứ nhìn vào những gì đang diễn ra trong cái thế giới văn minh tiến bộ, người ta cũng vẫn có thể nhận ra bậc thang các giá trị đang bị đảo lộn. Đừng kể đến những vụ phá thai như cơm bữa trong các nước Cộng sản. Hãy nhìn vào luật cho phép phá thai hiện hành tại hầu hết các nước Tây Phương: không là một trật tự bị đảo lộn ư khi một mặt, người ta hô hào tranh đấu cho “quyền” của thú vật, mặt khác người ta lại xem việc phá thai, tức sát hại một con người vô phương tự vệ còn trong lòng mẹ như một cái “quyền”?  Hãy thử để cho lý trí được lên ngôi và hãy thành tâm lắng nghe tiếng nói của lương tâm, liệu có thể xem việc sát hại thai nhi vô tội còn trong lòng mẹ như một “quyền” không?
Những “của đời chóng qua” được tuyệt đối hóa và đặt lên ở đầu bậc thang các giá trị,  thú vật có mọi “quyền” như con người,  sát hại người vô tội được “hợp pháp hóa” thành một “quyền”: đây là nghịch lý, là “bi kịch” lớn nhứt của thời đại. Đã là “bi kịch” thì đương nhiên, nó diễn tả “nỗi buồn” hơn là “niềm vui” và hạnh phúc đích thực của con người. 
Trong tác phẩm “The Message in the Bottle” (Sứ điệp trong cái Chai), ông Walter Percy, triết gia người Mỹ qua đời năm 1990, đã nêu lên câu hỏi: “Tại sao con người quá “buồn thảm” trong thế kỷ 20?”  Tại sao ở vào một thời đại mà con người đã thành công trong việc thỏa mãn mọi nhu cầu của mình, lại buồn thảm như thế?
Có lẽ tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc đã liên tưởng đến câu hỏi trên đây khi viết bài “Tại sao người ta mê tín?”  Tôi hoàn toàn đồng ý với câu trả lời của ông: Con người mê tín là vì bất an. Tác giả đưa ra một thí dụ tại Việt nam: “Nếu sống ở Việt nam hay theo dõi tình hình chính trị và xã hội tại Việt nam nhiều, chúng ta sẽ thấy một thay đổi khủng khiếp của giới lãnh đạo Việt nam trước và sau đổi mới (hay mở cửa), chủ yếu là ở thái độ của họ đối với các vấn đề tâm linh. Trước, họ là những kẻ vô thần, công khai vô thần, hơn nữa, vô thần một cách cực đoan, đúng hơn: phản thần, chống lại mọi thần linh. Tôn giáo ư? Chỉ là những liều thuốc lú! Nhà thờ hay chùa ư? Dẹp được thì dẹp ngay! Thế rồi, đùng một cái, Việt nam mở cửa, các cán bộ từ cao xuống thấp trở nên giàu có, nhà cao cửa rộng, xe hơi hiệu này hiệu nọ, muốn gì cũng có. Họ bỗng thay đổi. Họ không trở thành tín đồ của các tôn giáo đâu. Thái độ của họ đối với các tôn giáo lớn như Công Giáo và Phật giáo vẫn đầy nghi kỵ. Họ chỉ trở thành những kẻ mê tín thôi. Trong nhà họ xuất hiện các bàn thờ đầy khói hương. Họ thờ gì? Thường là Phật và Thần Tài. Ngày lễ, họ lặn lội khắp nơi để cúng bái.” (Nguyễn Hưng Quốc, Tại sao người ta mê tín? Đối thoại on line 13/7/2010)
“Tại sao tôi cũng có lúc mê tín?” Thưa là bởi vì tôi cũng có lúc bất an. Đời sống chẳng lúc nào không có những “vọng động” bên ngoài. Mà tâm “an lạc” thì lại do tự bên trong. Nói theo chữ của nhà văn Vĩnh Hảo, nếu tâm tôi cứ “lăng xăng” theo những “con bò vàng” thì bất an là điều không sao tránh khỏi.
 Chu Thập, World Cup 2010







Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét