Thứ Ba, 29 tháng 7, 2014

Còn một chút gì để nhớ để quên…



    
                                                                     Chu Thập 30.11.2009
   
Có lần, trong một lễ cưới, tôi nghe một vị linh mục mở đầu bài giảng với câu chuyện như sau:
“Có cặp vợ chồng già lụm khụm kia sống bên nhau một cách tình tứ. Tối tối, cụ ông thường có thói quen nhâm nhi một tách trà. Một đêm, trước khi xuống bếp, ông âu yếm hỏi bà:
-Bà có muốn ăn thêm một chút gì không? Tui pha trà rồi dọn cho bà luôn.
Bà vui vẻ trả lời trong lúc tay không ngừng đan:
-Tui thèm một ly kem ông à. Mà ông nhớ bỏ chút đậu phọng rang vào cho thơm.
-Được, tui sẽ lấy kem có đậu phọng cho bà.
Bà nói thêm giọng có chút “nhõng nhẽo”:
-Tui muốn có vài trái dâu vào nữa cho đẹp, được không ông?
-Có gì khó đâu mà không được?
-Nhưng ông có nhớ hết không đó? Hay ông ghi xuống đi. Hôm nọ, bác sĩ dặn ông từ nay cái gì cần nhớ thì phải ghi xuống chứ thôi sẽ quên hết.
-Ôi, bà  nghe lời ông bác sĩ làm chi. Ổng coi tui như con nít vậy, dặn dò đủ thứ lẩm cẩm. Tui chứng minh cho bà coi, năm phút nữa, tui sẽ đem lên cho bà một ly kem dâu với đậu phọng.
Ông đi xuống nhà năm phút rồi mười phút rồi hai mươi phút. Cuối cùng ông cũng trở lên sau nửa tiếng. Ông mang lên một ly cà phê đá cho mình và một… dĩa trứng ốp-la với thịt heo muối cho bà. Ông hý hửng đặt trước mặt bà. Bà nhìn qua rồi đẩy ra, giọng hờn dỗi:
-Tui nói rồi mà ông không nghe tui. Ông không biên xuống nên có nhớ gì đâu. Tui muốn bánh mì nướng trét bơ với mứt mận chứ có muốn trứng ốp-la với thịt muối đâu!!!”
Bầu khí trang nghiêm của lễ cưới vui nhộn hẳn lên. Câu chuyện thêm một chút mắm muối cho chủ đề “chung thủy lứa đôi” mà hầu như linh mục nào cũng muốn gợi lên trong các lễ cưới.
Thật ra, đó không hẳn là một câu chuyện cười, mà là một thực tế rất gần gũi với cuộc sống hằng ngày của chúng ta: cụ ông và cụ bà trên đây là “đại biểu” của một cộng đồng cư dân rất quan trọng nhưng xem ra ít được biết đến hay không muốn biết đến trong xã hội ngày nay. Nhưng họ có mặt như để nhắc nhớ chúng ta về một chứng bệnh “hồng phúc”: bệnh quên!
Thật vậy, trong khi con người luôn quay cuồng, căng thẳng và lắm khi đau khổ với lo âu, nghĩ ngợi mà chúng ta chỉ mong quên “phứt” đi trong chốc lát thì lại có những người, ngày qua ngày, quên dần  đi hiện tại, mù mờ với tương lai và sau cùng mất luôn cả ký ức. Cộng đồng “Vô tri” là cái tên mà tôi đặt tạm cho họ trong khi chờ đợi một “Hàn lâm viện Việt nam” nào đó tìm cho danh từ “Dementia” trong tiếng Anh một tên gọi chính xác. Trước đây, chúng ta hay nói người già bị “lú lẫn” nhưng thực ra lú lẫn kiểu lẩm cẩm nói đi nói lại một chuyện, nói trước quên sau vẫn chỉ là “chuyện nhỏ” so với việc không còn biết xử dụng cái chén, cái ly, thậm chí không còn biết  đói biết khát. Vì vậy, có lẽ từ “lú lẫn”  không đủ ý nghĩa để nói lên hội chứng Dementia. 
Cộng đồng “Vô Tri”, nơi mà ai trong chúng ta cũng có “tiềm năng” trở thành thành viên, là nơi mà trong đó, người ta dần dần không còn trí nhớ, không còn lo nghĩ. Một trong những người nổi tiếng của thế giới, Tổng thống Mỹ Ronald Reagan, cũng đã từng là thành viên của cộng đồng “Vô Tri” trong những ngày cuối đời. Ở đó người ta không cần tập thiền hay yoga gì cả mà vẫn có thể quên đi mọi thứ, từ chỗ quên những động tác nhỏ nhặt hằng ngày như giờ giấc, thói quen, ăn uống, tắm rửa…cho đến quên cả đường đi lối về, quên cả tên họ bản thân…Ngày qua ngày, diễn tiến “quên” cứ tiến triển cho đến khi người ta không còn khả năng bộc lộ chính mình qua ngôn từ cử chỉ với thế giới bên ngoài. Khả năng nhận thức về thế giới chung quanh cũng giảm theo. Chuyện này kéo theo những hệ quả khác cho đến khi những người này không thể sống mà không có sự trợ giúp toàn phần của người khác. Những hiện tượng trên đây cho chúng ta một cái nhìn về một hiện trạng đang tăng nhanh nơi người già và gần đây, những người ở cuối tuổi trung niên cũng đang “góp một bàn tay”. Đó là sự hoại tử trí não, một hệ quả của nhiều chứng bịnh khác nhau như đột quỵ, tiểu đường, nghiện rượu và dược chất, Parkinson…và là con đẻ của căn bệnh mà Anh ngữ gọi là Alzheimer.
Tôi luôn chủ trương rằng tạp ghi lăng nhăng như vầy không phải là nơi để bàn những chuyện thuộc về chuyên môn. Lại càng không phải là nơi để đi sâu vào những khía cạnh “thực tại phũ phàng” của đời thường. Tôi chỉ muốn nhìn những con số, những dữ kiện thực tế vui buồn qua một lăng kính khác và dưới một chiều hướng khác.
Thật vậy, thử tưởng tượng một ngày xấu trời nào đó, vào giữa lúc tâm trí vẫn tôi còn ghi nhận được tất cả mọi thứ hỷ, nộ, ái, ố, thì bỗng nhiên một ông “Đốc” nào đó quả quyết rằng chỉ một thời gian ngắn nữa tôi sẽ bị như vầy, như vầy…Rồi ông ta liệt kê: Tôi sẽ đi đến chỗ không nói được một chữ cho ra hồn chứ đừng hòng chửi lộn, thậm chí tôi sẽ dùng bàn chải đánh giày để đánh…răng. Tôi cũng không thể tìm được lối về dù chỉ còn cách nhà có vài căn. Rồi tôi cũng trở thành “Từ Thức” về trần: xa lạ với tất cả, kể cả với chính mình. Nếu ông “Đốc” còn “thành thật” báo cho biết rằng sau khoảng năm bảy năm sống “phất phơ”  trong bàn tay “bà phước” của người khác, cuối cùng tôi cũng sẽ… chuyển sang từ trần, thì có…đáng buồn không? Buồn quá đi chứ! 
Với một viễn ảnh đen tối như vậy, còn ai có thể nhìn thấy chút giá trị gì nơi những con người tội nghiệp ấy?
Riêng tôi, tôi vẫn thấy sự hiện diện của cộng đồng những người “vô tri” ấy  là một “hồng ân” cho đời, cho người.
Ngay từ giây phút đầu tiên tiếp xúc với họ, cảm giác bình an, vô tư và “buông xả” là những điều tốt đẹp và quan trọng nhất mà tôi nhận được nơi họ. Một sự thanh thản và an nhiên khó tìm thấy ở người khác và nơi khác. Nụ cười luôn nở trên môi là điều đảo lộn mọi thành kiến trong tôi trước đây về họ.Vô hình chung, họ giúp cho tôi nhìn thấy giá trị lớn lao khi tâm trí không còn bị vướng bận.
Ở Úc, những người bị Dementia thường được cung cấp một chỗ ở thoải mái, rộng rãi, một môi trường yên bình như một cộng đồng nhỏ với đầy đủ các sinh hoạt gia đình và xã hội. Người ta cố gắng duy trì mọi sinh hoạt và thói quen cho người bị Dementia một cách nhứt quán như chúng ta thường làm cho các em bé hai ba tuổi trở xuống. Nơi họ, bạn có thể phải trả lời hoài một câu hỏi, nghe hoài một đĩa nhạc cổ lỗ sĩ, coi hoài một cuốn phim thời trắng đen, đi hoài đến một bãi biển, ăn hoài một loại kem…Trong khi bạn ngấy lên tận cổ thì họ lại thích thú ra mặt. Khả năng cảm nhận của họ chỉ còn giới hạn đến đó.
Sự thích thú với những niềm vui thật nhỏ của họ là một điều đáng để suy nghĩ. Đang là những người có kiến thức, địa vị, chức phận, tiền tài…trong xã hội, giờ đây họ trở nên…bình đẳng và “vô tư” với những người khác. Họ “cóc” cần biết “mình là ai” và cũng không “care” người khác có biết “ai là mình” hay không. Họ vui vẻ sống hoà đồng bên nhau. Một đời sống buông bỏ và đơn giản. Với một thể lực tương đối tốt, không quá đau đớn về thể lý, họ có thể vui hưởng những thú vui dành cho người già. Nhìn họ ăn bận tưom tất, đi du ngoạn với nhau, không ai có thể nhận ra họ là những người “có vấn đề” về trí não. Ở điểm này, họ hơn hẳn những người già luôn phải chịu đựng các chứng bịnh “già” như: bán thân bất toại, đau tim, yếu thận, tiểu đường hay thấp khớp. Nhứt là họ cũng không còn thấy buồn tủi vì những lời “nặng nhẹ” của con cái.
Não của họ như cục than hồng phủ một lớp tro bên ngoài. Nếu như tro bụị bay đi, than lại hồng lên (dù rằng cục than rồi sẽ nhỏ đi). Mỗi “lớp tro” trí não bên ngoài bay đi thì những gì thuộc về hiện tại cũng “bay” theo trong khi những ghi nhận trong quá khứ xa xưa sẽ hiển hiện lên. Họ nhớ lại những chuyện xa xưa một cách sống động. Điều đó giải thích được cảnh một đêm trăng tròn, một bà lão chín mươi chợt thức giấc, nhớ đến cái hẹn với người yêu “hồi nẳm”, thay áo đẹp, xịt nước hoa, tô son trét phấn, xỏ giày “cao cao”, không quên xách theo cái bóp đầm, hì hục tìm cách leo rào…viện dưỡng lão để gặp người yêu.
Tôi thật sự thích thú trước những câu chuyện “ngày xưa” của họ. Những ký ức “đội mồ sống lại” của họ có thể được coi như những dấu tích mà các nhà “khảo cổ” về ngôn ngữ và văn hoá, lịch sử muốn tìm kiếm: Hễ thấy người nào chuyên môn dấu thức ăn trong ngăn tủ là biết ngay họ là  di dân đến từ các nước từng trải qua nạn đói; ông bà cụ di dân từ các nước Cộng sản Đông Âu và Liên Xô thì rất nghiêm nhặt trong việc sử dụng giấy vệ sinh: không quá hai “khấc” giấy cho chuyện đi tiểu và bốn “khấc” cho đi…tiêu! Có người còn “chơi” luôn giấy báo! Họ cũng thích nói tiếng mẹ đẻ trở lại. Thần dân của vương quốc Anh thì cứ hễ nghe bài “God save the Queen” thì ngay lập tức nghiêm trang đứng dậy, không cần biết đang làm gì, kể cả đang thiu thiu ngủ. Đã hơn một lần tôi chứng kiến cảnh một loạt con cháu nữ hoàng đứng lên ngồi xuống rồi lại đứng lên ngồi xuống liên tục chỉ vì cái máy hát bị “mát”, chơi đi chơi lại cái bài ca đó. Vừa thấy tức cười vừa thấy thương. Còn nữa, bạn muốn nghe những thành ngữ cổ xưa hay những chuyện thời tiền bán thế kỷ trước thì chỉ cần khơi mào một chút là xong ngay, nhưng nhớ đừng tin hoàn toàn vì chuyện nọ xọ chuyện kia là thường.
Có lẽ không có an ủi nào lớn hơn cho chúng ta, những người có cha mẹ lớn tuổi, khi nhìn thấy họ còn được sống vui dù phải nhờ vào người khác. Thật vậy, trong khi những chăm sóc hằng ngày như tắm rửa, mặc quần áo, thay băng vết thương…hầu như chỉ tăng thêm đau đớn cho những người già khác thì với hội chứng Dementia, sự chăm sóc của chúng ta thường mang cho họ nụ cười. Niềm vui của họ chính là phần thưởng vô giá cho chúng ta.
Chứng kiến tiến trình đi vào thế giới “vô tri” của người già giúp tôi đặt lại giá trị của trí não, một bộ phận cơ thể không thể thay thế và là cái xác định “cái tôi” trong mỗi người. Trí não thường phải làm việc quá nhiều vì những lo âu đa mang không cần thiết. Trí não cũng thường bị “hành hạ” vì rượu và dược chất. Đã có tiên đoán một nước Nga phải đối diện với “đại dịch” Dementia. Việt Nam với “văn hoá nhậu” chắc cũng sẽ nối gót đàn anh.
Quan sát cách người ta chăm sóc cho những người Dementia giúp tôi tái khẳng định: đời sống càng đơn giản thì tinh thần càng thoải mái và thể chất càng lành mạnh.
Chỉ  có điều, một cách vô tình theo bản năng của con người, có hai câu hỏi mà một người già dù có “vô tri” cách mấy cũng thường xuyên đặt ra cho mình và cho người khác: “Tôi là ai?” và “Tại sao tôi lại hiện diện nơi đây?”
Tội nghiệp! Họ không còn đủ ý thức đề hiểu rằng, không riêng họ, những người bị Dementia, mà cả những con người bình thường như chúng ta và bao nhiêu nhà hiền triết, học giả cũng luôn băn khoăn tự đặt ra cho mình những câu hỏi nghìn đời ấy. Chưa ai có câu trả lời thoả đáng. Dù sao, họ vẫn “sướng” hơn chúng ta, họ hỏi chỉ để hỏi; còn chúng ta hỏi để…điên cái đầu.
  
   



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét