Thứ Tư, 23 tháng 7, 2014

"Angelina"

                                         “Angelina”

                                                                      



“Angelina” chẳng có ăn nhập gì với tên cô đào nổi tiếng Angelina Jolie. Đó chỉ là cái tên của con chó “què” của chúng tôi.

Hai chữ “khuyết tật” nghe lịch sự, nhưng không diễn tả hết cái cảnh khốn khổ của con Angelina. Phải nói nó “què” thì mới thấy thương nó, mỗi khi nó lê lết đôi chân sau để đi nghiêng ngả, xiêu quẹo, lắc lư hay trèo lên té xuống mỗi khi bước lên một bậc cấp; ngay cả những lúc nó vui vẻ cố “rượt bắt” một con gián, khi gần chộp được thì lại ngã lăn ra.Vậy mà con vật này đã trở thành một “thiên thần” luôn gợi lên cho tôi nhiều ý nghĩ và cảm hứng về cuộc đời, về con người.

Tôi nghĩ: yêu thương súc vật không phải là một bản năng. Điều này ít nhứt đúng cho trường hợp của tôi. Nếu không được dạy dỗ bằng cách này hay cách khác thì xem ra chẳng ai thực sự yêu thương súc vật.

Lúc nhỏ, tôi ít được dạy dỗ về những bài học cơ bản trong cuộc sống mà lẽ ra con người phải học ngay từ lúc còn ngồi trên gối mẹ.Tác giả Robert Fulghum trong cuốn sách có tựa đề “Những gì tôi cần học, tôi đã học trong vườn trẻ”, đã có lý để viết rằng trẻ con cần học những chân lý nền tảng của cuộc sống ngay từ thuở nhỏ. Có lẽ cũng vì vậy mà ông bà chúng ta thường dạy con cháu phải “học ăn, học nói, học gói, học mở”.

Thuở nhỏ, không rõ có chịu ảnh hưởng của quan niệm “nhân chi sơ tính bản thiện” của ông Mạnh Tử hay triết lý giáo dục của triết gia Jean Jacques Rousseau của Pháp không mà cha mẹ tôi  cứ để cho tôi “lêu lổng” suốt ngày. Ngoài thành tích vô địch về trốn học, tôi còn đoạt giải quán quân về “phá xóm phá làng”. Đầu trên xóm dưới, vườn nhà ai bị mất trái cây hay mái nhà ai có bể ngói, thì cứ réo gọi tên tôi và ông anh kề của tôi ra mà chửi.

Ngoài chiếc cần câu ra thì chúng tôi còn có một khí giới độc hại nữa là cái ná bắn chim. Cứ mỗi ngày thứ năm được nghỉ học là anh em tôi và bọn trẻ trong xóm lên đường đi tảo thanh. Chim chóc là đối tượng chính của cuộc hành quân. Những con chim bị bắn đứt đầu, bể ruột đều được chúng tôi nhổ lông, xát muối ớt, nướng ăn tại chỗ. Ở vào cái thời mà thịt gà, thịt heo, thịt bò hay thịt trâu chỉ được ăn mỗi năm một lần vào ngày Tết hay những dịp lễ đặc biệt thì chất đạm của chim quả là cần thiết cho lứa tuổi mới lớn của chúng tôi.

Bắn hạ chim mà chẳng thấy có chút xót xa, thì phá tổ chim cũng được chúng tôi xem như một cái thú. Thông thường chúng tôi phá tổ chim để lấy trứng. Nếu trứng đã nở, thì chúng tôi giữ lại những con chim nhỏ để nuôi.

Tôi đã nuôi đủ loại chim: từ manh manh, áo già, giồng giọc, sáo cưỡng, két, cu cho đến cú mèo. Ngay cả chồn “đèn”, chồn hương, tôi cũng đã thử nuôi qua. Cũng giống như chim cu, mấy thứ này nuôi lớn là bỏ trốn. Chỉ có sáo, cưỡng, két là biết hót và ở lại với con người. Dù vậy, tôi vẫn không sao có thể “trìu mến” đối với thú vật. Tàn nhẫn nhứt là đối với dế. Con dế nào “thua trận”, liền bị tôi xẻ trên đầu một lỗ nhỏ, nhét thuốc lá vào cho nó say và nó sẽ tự động gáy cho đến chết.

Tàn nhẫn như thế đối với thú vật mà lương tâm tôi chẳng có chút áy náy. Ngày nay, theo dõi “văn hóa ăn uống” bên nhà, khi thấy bất cứ con thú nào cũng đều có thể là “đồ nhậu”, tôi cứ rùng mình nghĩ: nếu còn “kẹt” lại trong nước, chưa bao giờ tiếp cận với văn hóa Tây phương, tôi cũng chẳng hơn gì.

Đặc biệt tôi nghĩ đến món “sống trên đời”. Tuy không phải là người “xuống tới âm phủ vẫn còn tiếc nuối vì chưa thưởng thức món dồi chó” trên dương gian, tôi cũng đã từng vào các quán “sống trên đời” hay “nó đây rồi”. Nhưng ở miền Trung của tôi, dường như người ta có lối “ăn” thịt chó khác với người Bắc. Người Bắc “thèm” thịt chó đến độ không có chó thì phải làm các món “giả cầy”. Người miền Trung thì thường phải ướp, nấu như thế nào để “báng” đi mùi của chó, rồi mới thưởng thức. Chính vì vậy mà mấy ông Tây dễ bị đánh lừa. Thấy món ngon cứ ăn ngấu nghiến, đến lúc phát giác ra mình bị lừa, phải nôn tháo ra, trông thật tội nghiệp.

Tuy chẳng có chút máu tây nào trong người và ngày ba bữa vẫn xem cơm gạo và nước mắm là thành tố không thể thiếu được của bữa ăn, nhưng ngày nay, mỗi khi nói đến thịt chó, tôi lại cũng thấy buồn nôn.

Nói như thế không có nghĩa là tôi lên án việc ăn thịt chó. Ngạn ngữ Latinh có nói “luận về sở thích (khẩu vị, hay ăn uống), chớ nên tranh cãi”. Thật vậy, ăn uống là cái gì gắn liền với văn hóa và bản sắc của một dân tộc. Tôi không thể vì thuộc văn minh “muỗng nĩa” hay “đôi đũa” mà nhạo báng cái lối “ăn bốc” mà đã có một thời tôi xem là “mọi rợ” của hơn một tỷ người Ấn Độ, của cả vùng Trung Đông, của Indonesia, Malaysia, Phi luật tân và Nam Thái Bình Dương hay cả lục địa Phi Châu.Tôi không thể vì ăn thịt bò thịt heo, mà chê cười người Ấn độ vì họ không ăn thịt bò hay người Hồi giáo vì họ không ăn thịt heo.Tôi cũng chẳng vì “ăn chay” mà lên án những người ăn “mặn” hay ngược lại. Tôi cũng chẳng vì cái lối ăn uống “ít ồn ào” của người Tây phương mà khó chịu trước cái cách ăn “kêu to ầm ĩ” cho hết dạ thỏa thích của người Tàu.

Về chuyện này, xem ra người Tây phương thường thiếu thái độ “khoan nhượng”. Còn nhớ, hồi năm 1996, khi Thế vận hội mùa Hè diễn ra tại thủ đô Seoul của Hàn Quốc, nhiều người Tây phương đã kêu gọi nước này phải đóng cửa các quán thịt cầy, vốn là món quốc hồn quốc túy ngang hàng với củ sâm.Văn minh Tây phương, vốn bắt nguồn từ Kinh Thánh Do thái giáo và Kitô giáo, quên rằng theo Kinh Thánh thì thú vật được Đấng Tạo Hóa làm ra là để cho con người “hưởng dùng”. Hưởng dùng ở đây không chỉ có nghĩa là nuôi nấng trong nhà mà còn nếu cần “xẻ thịt” để làm thức ăn nữa.

Người Tây Phương không những thiếu “khoan nhượng” mà cũng thiếu “nhứt quán” nữa. Cứ nhìn vào hai thí dụ sau đây để thấy rõ thái độ ấy: giống heo “mọi” đen của Việt nam vốn chạy rông ngoài đường bụi đất ở làng quê hay dầm mình trong “bùn lầy” nhơ bẩn, vậy mà khi “đi Tây” lại được nâng như trứng, hứng như hoa và đưa vào phòng khách, thậm chí cả phòng ngủ của con người. Biết đâu, một ngày nào đó, có người lại chẳng kêu gọi chính phủ ra luật cấm ăn giống heo này như đã từng có luật cấm ăn thịt chó.

Thí dụ thứ hai cho thấy thái độ thiếu nhứt quán của người nhiều người Tây Phương là lập trường ủng hộ phá thai. Cũng chính những minh tinh màn bạc hay người mẫu phá thai như cơm bữa, xem thai nhi trong lòng mẹ như rơm rác, lại là những người sẵn sàng cởi bỏ quần áo, xuống đường để chống lại việc sử dụng da thú làm quần áo hay để tranh đấu cho điều được gọi là quyền súc vật!

Nhưng nói qua thì cũng phải nói lại, tôi đã tiếp thu rất nhiều điều từ nền văn minh tinh tế của Tây Phương. Tôi học được sự tôn trọng dành cho người tàn tật. Người Việt nam chúng ta “cái gì cũng cười, hay cũng cười, mà dở cũng cười”. Nhưng đáng trách hơn cả là đem sự tàn tật của người khác ra chế nhạo làm trò cười. Lúc nhỏ, tôi chẳng hề được cha mẹ hay bất cứ thày giáo nào dạy dỗ về điều này. Nghe một người nói ngọng thì nhại lại giọng của người đó. Thấy một người mù thì tìm cách dắt đi cho lạc hướng. Gặp một người tàn tật thì cố tình “nhại” lại cách đi đứng hay cử chỉ bất cập của người đó. Không riêng gì trẻ con, mà ngay cả những người lớn cũng xem việc chọc phá người tàn tật như một chuyện bình thường.

Kể từ ngày “đổi đời” ở Tây Phương, tôi đã học được bài học vỡ lòng là tôn trọng người khuyết tật. Trong bãi đậu xe, người khuyết tật là người ưu tiên có chỗ tốt.Trong nhà vệ sinh công cộng, người khuyết tật cũng có một chỗ đặc biệt. Người ta có thể sửa cả một trường học chỉ vì một em khuyết tật được nhận. Tựu trung, ở đâu cũng có lời kêu gọi tôn trọng người khuyết tật.

Bài học vỡ lòng thứ hai mà tôi phải học lại trong xã hội Tây phương là lòng yêu thương đối với thú vật. Trẻ em Tây Phương xem ra tự nhiên biết yêu thương thú vật. Còn tôi, tôi phải “học” mới thực sự biết yêu thương chúng.

Sự hiện diện của con “Angelina” trong gia đình tôi là một phần trong chương trình “tự học” ấy của tôi. Nó là một “thiên thần” khơi gợi và hướng dẫn những cảm xúc tốt lành trong tôi.

Tôi không phải là một Phật tử. Tôi không hiểu gì về thuyết luân hồi. Nhưng nhiều lúc nhìn ánh mắt của Angelina, tôi thấy nó không chỉ là một con chó và nhứt là một con chó “què”. Nếu với những vật vô tri mà thi sĩ Pháp Lamartine đã tự hỏi: liệu chúng có một “linh hồn” không để khiến cho ông phải cảm thấy quyến luyến, thì với con Angelina của chúng tôi, có lúc tôi thấy nó có những phản ứng như thể có một thứ “linh hồn” để cảm nhận, để hiểu biết như một con người. Mỗi khi chúng tôi nhắc đến tên nó, nó cũng biết vểnh tai để lắng nghe. Mỗi khi chúng tôi ra một cái lệnh “trái tai” nó, nó làm như không nghe biết. Mỗi khi nằm một mình, nó cũng nói như thể đang trò chuyện với ai đó. Và nhứt là mỗi khi chúng tôi ra vườn, dù nắng mưa, dù có phải té ngả nghiêng, nó vẫn lẽo đẽo chạy theo.

Nhờ con Angelina mà tôi hiểu được tại sao mỗi năm người Tây Phương và nhứt là người Úc đã phải tốn một số tiền quá lớn vì những con thú nuôi trong nhà. Tôi cảm thông với những người phải sống cảnh neo đơn trong cái xã hội quá lạnh nhạt tình người này: họ cần có những con thú để ít nhứt còn biết mình đang sống!

Chúng tôi cũng thấy cần có Angelina. Thấy nó ốm yếu, tàn tật và có lẽ cũng đau đớn vì “tuổi già”, đã có lúc chúng tôi có ý nghĩ đem ra một bệnh viện thú y để gọi là cho nó “đi ngủ”, nghĩa là giúp nó  chấm dứt cái kiếp làm chó khốn khổ này. Nhưng chúng tôi lại không đủ can đảm cộng tác vào hành động “trợ tử” ấy. Dù có tàn tật và già yếu, nó cũng đáng sống hơn là phải chết. Ngay cả những ngày “trở bịnh” không đứng dậy nổi, nó vẫn tỏa “sức sống” trong ánh mắt. Đó là chưa nói đến sự hiện diện đầy cảm hứng mà nó có thể gợi lên cho tôi.

Riêng tôi, nhớ lại bài thơ “lão Tiều phu và Thần Chết”* của thi sĩ Pháp La Fontaine, tôi cũng thấy “thà đau khổ hơn chết”. Sự sống của con người ở giai đoạn nào, tuổi nào, hoàn cảnh nào cũng đều đáng sống cả.



*Câu chuyện về người Tiều phu già, khốn khổ muốn gọi thần Chết đến để kết liễu đời mình. Nhưng khi thần Chết xuất hiện hỏi ông cần gì thì ông lại cảm thấy muốn sống nên nói “trớ” rằng chỉ muốn nhờ Thần Chết chất bó củi lên vai.

Chu Thập 11.2009

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét