Theo một giai
thoại, một hôm Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm bốc một lá số tử vi cho cái quạt
ông dùng hàng ngày. Theo lá số, cái quạt này sẽ “tận số” vào ngày đó tháng đó.
Đúng ngày, ông không làm gì cả, suốt ngày cứ ra vào xem chừng lá số tử vi của
cái quạt sẽ ứng nghiệm như thế nào. Để cho chắc ăn, ông leo lên bộ ván ngựa, đặt
cái quạt nằm sát bên người và dán chặt mắt vào nó. Bà vợ thấy chuyện “quái gở”
nên bắt đầu tra gạn. Nhưng để “bảo mật”, ông dứt khoát không hé răng giải thích
cho bà hiểu việc làm của ông. Đến một lúc không còn đủ kiên nhẫn, bà vợ túm lấy
cái quạt và xé nát tan tành. Lúc bấy giờ, ông thày sấm mới thú nhận rằng số phận
của cái quạt đã kết thúc đúng như lá số tử vi ông bốc cho nó.
Tôi thường nại đến
giai thoại trên đây để hiểu “tử vi” theo cách thế của tôi. Với tôi, không có một
định mệnh bất biến được sắp sẵn, mà chỉ có định mệnh do con người “làm ra”. Tôi
luôn tâm đắc với câu nói: “Một hành động
được lập lại trở thành một thói quen, một thói quen làm nên tư cách và một tư
cách làm nên định mệnh.” Nghĩ như thế cho nên tôi không quan tâm đến tử vi
và cũng chẳng màng đến các lời “sấm”.
Vậy mà, trong suốt
mùa World Cup vừa qua, tôi cứ bị “ám ảnh” bởi hai vị “tiên tri”. Một là tiên
tri Nostradamus của Pháp vào thế kỷ thứ 16. Nhiều người cho rằng hầu hết các
tiên đoán của ông trong thế kỷ vừa qua đều đúng phóc. Riêng về World Cup 2010
này thì ngay từ lúc khai mạc, người ta đã diễn dịch một lời sấm của ông theo đó
đội tuyển Tây Ban Nha sẽ vô địch thế giới.
Thật ra, với một
đội tuyển vừa đoạt giải vô địch Âu châu cách đây hai năm, một lời sấm như thế
chẳng gây nhiều ngạc nhiên lắm.
Chính vì thế mà
giới cá độ thế giới lần này xem ra chú ý đến “ông thần Bạch Tuộc” Paul của Đức
hơn. Thú vật có làm nhà “ngoại cảm” được chăng hay chỉ là chuyện trùng hợp ngẫu
nhiên như trong trò đánh “chẵn lẻ”? Cứ
trước mỗi trận đấu có “sấm” của “ông thần bạch tuộc” này “bốc” là tôi thấy “rúng
động”. Tôi cứ sợ điều “ông” đoán là đúng. Chính vì vậy mà lần nào tôi cũng đều
“bắt” ngược lại với “sấm” của ông thần bạch tuộc. Hễ “ông” nói đội nào thắng
thì tôi lại bắt đội khác. Chẳng hạn, trong trận chung kết, thần bạch tuộc tiên
đoán đội Tây Ban Nha thắng thì tôi lại ủng hộ đội Hòa Lan.
Thật ra, sở dĩ
tôi làm ngược lại như thế chẳng phải vì muốn “cải số” mà là vì tôi có “cảm
tình” đặc biệt với những đội dưới cơ. Lúc nào cũng vậy, cứ thấy một đội tuyển
dưới cơ bị tấn công là tôi ủng hộ đội đó. Tôi chỉ mong sao cho “ngựa về ngược”.
Có lúc tôi tưởng mình cũng muốn khóc với những đội thua. Nhìn gương mặt thiểu
não của các tuyển thủ cũng như những người ủng hộ họ, tôi thấy “cụt hứng”, chẳng
muốn vui mừng chút nào ngay cả khi đội được tôi ủng hộ có chiến thắng.
Sau bất cứ cuộc
thi đấu nào trong World Cup vừa qua, tôi cũng đều liên tưởng đến câu nói của cựu
thủ tướng Anh Winston Churchill trong thời đệ nhị thế chiến: “Không gì buồn thảm bằng chiến thắng.”
Chắc chắn, ông thủ tướng có lòng nhân ái này không thể nào cầm lòng được khi
nhìn cảnh hoang tàn đổ nát hay xác người ngổn ngang trên chiến trường, dù thuộc
phe nào. Làm sao có thể vui mừng được khi nhìn thấy cảnh tượng ấy.
Cuộc vui nào
cũng qua đi. Lễ hội nào cũng có lúc phải kết thúc.World Cup đã bế mạc. Giờ đây,
tôi thấy cần phải nhìn lại “chính mình” trong suốt một tháng “mất ăn mất ngủ” lăn
lóc với trái banh trên màn hình vừa qua. Thi đấu không chỉ diễn ra trên sân cỏ.
Trong tâm hồn của một khán giả như tôi cũng diễn ra một cuộc chiến đấu liên tục.
Thể thao không
chỉ là một môn giải trí, mà còn là trường dạy nhân cách. Thể thao dạy cho tôi
tinh thần thượng võ, đồng đội và liên đới. Thể thao cũng gợi lên trong tôi nhiều
đức tính khác như sự cảm thông và ngay cả tha thứ nữa. Không gì cảm động bằng
những cảnh như các cầu thủ ôm nhau, đổi áo cho nhau, kẻ thắng vỗ về người thua sau
một trận đấu hay những cái bắt tay “làm hòa” sau khi có va chạm. Sẽ là một mất
mát hay chiến bại đối với tôi, nếu sau mùa thể thao này, tôi không thấy mình lớn
thêm một chút nào trong những “cử chỉ” đẹp ấy.
Nhưng trong những
tình cảm thường xuất hiện trong tôi suốt mùa World Cup vừa qua, tôi nhận thấy
điều cần trau dồi nhứt là lòng biết ơn. Tôi thấy mình cần phải biết ơn các cầu
thủ.
Tôi phải cám ơn
các cầu thủ vì họ là những người thường bị đối xử thiếu tôn trọng và “bạc bẽo”
nhứt. Hãy thử nghe người Việt nam gọi tên các cầu thủ. Tôi chưa từng thấy có cầu
thủ nào được gọi là “ông” cả. Tất cả đều là “thằng”. Thằng Pele, thằng
Maradona, thằng Kaka, thằng Cristiano Ronaldo, thằng Klose, thằng David Villa,
thằng Ramos, thằng Tim Cahill, thằng Robben, thằng Iniesta…Có khi họ chỉ còn là
một con số như các tù nhân dưới thời Đức quốc xã như thằng số 9, thằng số 7, thằng
số 10...Thắng trận thì được tung hô, nhưng nếu chẳng may thất trận, thì số phận
của các cầu thủ thật bi đát. Bao nhiêu lời rủa sả độc ác đều có thể trút xuống
trên đầu họ. Tôi thật đau lòng khi thấy các cầu thủ của hai đội tuyển Pháp và Ý
phải trốn chui khi vừa ra khỏi phi trường. Tôi cảm thấy buồn tủi cho các cầu thủ
Cameroon khi vừa ra khỏi phi trường đã được dàn chào bằng một biểu ngữ: “Các ông không yêu nước. Nhục cho các ông.”
Nhà văn Phan Lạc
Phúc đã diễn tả đúng sự đối xử bạc bẽo và tàn nhẫn của khán giả dành cho các cầu
thủ trong bài viết về “Nhà Báo Nói Huyền Vũ”. Nhà báo này đưa vợ đi xem một trận
đấu giữa đội tuyển Thái Lan và đội tuyển Việt nam. Đây là lần đầu tiên bà Huyền
Vũ vào sân Cộng Hòa để xem đá bóng, bởi vì trong trận đấu, con trai của bà là
Quốc Bảo được vinh dự làm thủ môn của đội tuyển Việt nam. Chẳng may, trong trận
đấu này, thành trì của đội Việt nam bị vây hãm tơi bời.
Ký giả Phan Lạc
Phúc kể: “Một sự dồn nén nào đó đã thấy
xuất hiện ra nơi khán giả với những tiếng ồn ào bất mãn khi thấy cầu thủ Miền
Nam đá vụng về tan nát. Một trái sút xa của Thái lan từ 30m không có vẻ gì nguy
hiểm. Trung vệ Cư không “cắt” để cho thủ môn Quốc Bảo bắt trái banh này. Nhưng
không hiểu vì hốt hoảng trong một trận cầu quan trọng hay xúc động vì có những
cặp mắt của những người thân yêu nhất đời anh đang theo dõi nên Quốc Bảo bắt “ói”
trái banh này. Tiền đạo Thái Lan tràn đến, trung vệ Cư phải tackle hết mình mới
đưa được trái banh ra khỏi đường biên cuối sân chịu phạt góc. Khi trái banh sắp
được câu vào, trong cái yên lặng nặng nề của một cầu trường ẩn ức, Quốc Bảo bỗng
trở thành đối tượng cho sự bất bình của khán giả. Một lời phê bình nặng nề đâu
đó vang lên nơi khán đài bình dân: “Quốc Bảo về đi.” Ngay sau đó vài tiếng chửi
thề đột ngột văng theo: “ĐM thằng Quốc Bảo.” Đó là phản ứng thường thấy nơi đám
đông, độc ác một cách vô tình, a dua một cách vô ý thức. Tôi nhìn lên anh Huyền
Vũ, anh là người quen thuộc với đám đông nên vẫn thấy anh bình tĩnh theo dõi trận
đấu. Nhưng khi nhìn đến chị Huyền Vũ thì tôi thấy chị gục đầu, chiếc khăn bông
che lấy mặt. Hình như chị không dám nhìn ai. Lần đầu tiên đến sân vận động định
chia sẻ cùng chồng con một chút tiếng tăm, không ai ngờ chị lại phải chịu một sự
mạ lỵ công khai nặng nề đến thế.” (Phan Lạc Phúc, Tuyển Tập Tạp Ghi, Văn Nghệ,
2002, trg 146-147)
Đúng như nhận
xét của nhà văn Phan Lạc Phúc, khán giả thường “độc ác một cách vô tình, a dua một cách vô ý thức.” Riêng tôi, tôi
cho rằng khán giả không chỉ độc ác và a dua, mà còn vô ơn nữa. Theo tôi, bất cứ
đội tuyển và cầu thủ nào cũng đáng được vinh danh và biết ơn. Sức ép và kỳ vọng
của cả một quốc gia đè nặng trên mỗi cầu thủ. Không có 31 đội tuyển tham gia
thi đấu thì làm gì có một đội tuyển Tây Ban Nha vô địch. Không có 31 đội tuyển
được đến Nam Phi thì làm gì mầu cờ sắc áo của nhiều nước được bay phất phới tại
lục địa Phi Châu và bài quốc ca của những nước đó được vang dội trong cầu trường.
Không có 32 đội tuyển thi đấu một cách tận tình “chết bỏ”, thì làm gì tôi và
hàng tỉ khán giả trên khắp thế giới có được “niềm vui” trong suốt 31 ngày vừa
qua.
Nghĩ như thế cho
nên tôi thấy tự trong đáy lòng cần phải nói lên lời biết ơn đối với các đội tuyển
và từng cầu thủ đã có mặt tại World Cup này. Chính họ đã khơi dậy nơi tôi sự biết ơn, tâm tình cơ bản nhứt mà nếu
không có, tôi sợ mình không thể sống cho ra người.
Lễ hội “World
Cup” đã qua, nhưng “di sản” còn lại của nó hẳn phải là lòng biết ơn và sự tôn
trọng mà tôi thấy cần phải trau dồi hơn bao giờ hết. Hai tiếng “cám ơn” tưởng
là một công thức sáo mòn, nhưng không có nó cuộc sống xã hội hẳn phải ngột ngạt
khó thở. Có người Việt hải ngoại nào về Việt nam mà không nhận thấy rằng hai tiếng
ấy đã hầu như trở nên quý hiếm trên cửa miệng và ngôn ngữ Việt nam hiện nay. Sự
kiện ấy nói lên một cái gì còn sâu xa hơn là một công thức lịch sự, bởi vì nó
phản ánh chính cái lỗ hổng đạo đức mà xã hội Việt nam đang bị nhận chìm vào. Vô
thần thường cũng đi đôi với vô ơn. Trước kia, người Việt nam “ghi ơn” các chiến
sĩ đã bỏ mình vì tổ quốc. Sau 1975, không có “ghi ơn”mà chỉ có “ghi công”. Một
khi quan hệ giữa người với người chỉ còn được cân đo đong đếm bằng “công trạng”,
thì dĩ nhiên những thành phần bị xem là “vô sản xuất” hay “khuyết tật” hay
không còn “hữu ích” cho xã hội nữa, đương nhiên sẽ bị bạc đãi và khinh rẻ.
Chỉ có lòng biết
ơn mới giúp cho con người biết nhận ra giá trị và “công trạng” của mọi người
đang sống xung quanh mình. Lòng biết ơn sẽ mách bảo ta rằng dù có nghèo hèn đến
đâu, bất cứ ai cũng có thể là “ân nhân” của ta. Lòng biết ơn lại càng mời gọi
ta phải “thức tỉnh” để nhận ra những “ơn nghĩa” của những người gần gũi với ta
nhứt.
Tôi đặc biệt nhớ
lại bài học biết ơn vỡ lòng mà đức
Gioan Phaolô đệ Nhứt, người chỉ lãnh đạo Giáo hội công giáo hoàn vũ trong đúng
33 ngày, đã để lại cùng với nụ cười không bao giờ tắt của ngài. Trong một cuộc
gặp gỡ chung với khách hành hương, ngài kể lại câu chuyện với nội dung như sau:
như mọi buổi sáng Chúa Nhựt, cha con của một gia đình nọ dắt nhau đi đá bóng.
Người mẹ phải ở nhà làm đủ mọi việc. Đến trưa, người cha và các con về nhà; họ
ngạc nhiên vô cùng vì trái với mọi khi, thay cho cơm bánh, họ chỉ thấy trên bàn
ăn một đống rơm. Bụng đói, cha con người đàn ông bắt đầu càu nhàu trách móc người
mẹ. Chờ cho những người đàn ông trút hết cơn giận, người mẹ mới ôn tồn nói: bao
nhiêu năm tôi đã đầu tắt mặt tối hầu hạ các người, các người chưa hề nói một lời
“cám ơn” với tôi. Vậy mà chỉ có một bữa tôi không dọn bữa, các người lại trách
móc đủ điều.
Câu chuyện đơn
sơ chỉ có thế. Nhưng vị giáo hoàng này muốn nhắc nhở các tín hữu về một bài học
cơ bản nhứt trong Đạo, vốn cũng là đạo làm người. Bài học đó là lòng biết ơn đối
với những người gần gũi và những người vô danh, xa lạ nhứt trong cuộc sống.
Tuy muộn màng,
nhưng tôi cũng muốn nói “cám ơn” tất cả các cầu thủ và đội tuyển đã tham gia
World Cup vừa qua. Họ không chỉ làm cho tôi “vui vài trống canh” trong những
đêm thức trắng. Họ còn gợi lên cho tôi tâm tình biết ơn, để sau mùa World Cup
này, tôi cũng thấy mình đạt được một chiến thắng vì thấy mình lớn thêm một chút
trong nhân cách. Và cũng nhờ sự biết ơn này, tôi tin rằng, các cầu thủ của tất
cả các mùa World Cup đã “đi qua đời tôi”
sẽ không bao giờ bị quên lãng. Dù họ không bao giờ biết tôi là ai, nhưng tôi vẫn
hân hạnh dành một chỗ trong tâm hồn tôi cho họ.
Chu Thập, World Cup 2010
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét