![]() |
Blue Poles-Jackson Pollock |
Thượng viện Liên bang Úc sẽ bắt đầu hoạt động với một “đội
hình” mới vào đầu tháng 7, 2014 tới đây. Số phận của chính phủ Liên Đảng và dĩ nhiên cuộc sống của người dân tùy thuộc vào cuộc
“đấu đá” sắp tới của Thượng viện.
Để tìm một hình tượng khả dĩ mô tả được bộ mặt mới của
Thượng viện, thượng nghị sĩ độc lập đại diện cho tiểu bang Nam Úc là ông Nick
Xenophon nói rằng nếu so sánh Thượng viện với một bức tranh thì ông cho rằng nó
chẳng phải là một phong cảnh. Nó cũng chẳng phải là một bức tranh siêu thực của
họa sĩ Pablo Picasso mà người ta muốn treo ngược, treo xuôi kiểu nào cũng được.
Theo thượng nghị sĩ Xenophon, Thượng viện với bộ mặt mới sẽ giống như bức tranh
“Blue Poles” (những cây trụ xanh) của họa sĩ Mỹ Jackson Pollock hiện đang được treo ở Phòng
Nghệ Thuật không cách xa Tòa nhà Quốc hội Liên bang bao nhiêu. Thoạt tiên, vào
năm 1952, họa sĩ Pollock không đặt tên cho bức tranh mà chỉ đánh số “Number
11”. Hai năm sau, trong một cuộc triển lãm tại Sydney, bức tranh được đặt tên
là “Blue Poles”. Năm 1973, Phòng triển lãm nghệ thuật Úc “National Gallery of
Australia” đã mua lại bức tranh với giá 1.3 triệu Úc kim.
Tôi đã cố gắng vận dụng tất cả khả năng thưởng thức nghệ
thuật của mình để chiêm ngưỡng bức tranh này. Nhưng thú thật, tôi thấy mình còn
tệ hơn cả 5 người mù đi “xem” voi. Tôi chẳng “thấy” được gì cả. Với tôi đó chỉ
là một mớ mầu sắc hỗn loạn được pha trộn với nhau. Phải chăng thượng nghị sĩ
Xenophon muốn nói đến cái cảnh “bát nháo” ấy của Thượng viện Liên bang khi mang
ra so sánh với bức tranh “Blue Poles” này ?
Sự so sánh của thượng nghị sĩ Xenephon gợi lên cho tôi một
ý nghĩ: con người ta có thể hợp lại với nhau để làm nên một bức tranh. Tôi chưa
được một lần đặt chân vào bên trong Quốc hội Liên bang để xem “bức tranh” ấy đẹp
xấu như thế nào. Nhưng trong thời gian này, hầu như ngày nào tôi cũng được
chiêm ngưỡng một bức tranh “đẹp”. Đó là bức tranh của các trận thi đấu trong Giải Túc Cầu Thế Giới 2014 tại Ba Tây.
Với tôi, đây là một bức tranh muôn mầu, sặc sỡ, nhưng lại
rất hài hòa. Trên khán đài lúc nào cũng đông nghẹt, mầu cờ sắc áo của khán giả
tạo nên một cảnh vật, đúng như chúng ta thường nói, “đẹp như trong tranh”.
Nhưng tôi thích nhìn ngắm mầu sắc trên sân cỏ hơn. Nếu có sự tham gia thi đấu của
hai đội mạnh nhứt nhì Á Châu là Nhựt Bản và Đại Hàn, thì quả thực từ trắng,
đen, vàng, nâu...mầu da nào cũng được tô đậm trên sân cỏ. Mỗi lần theo dõi một
trận đấu có một đội của Châu Mỹ La Tinh tham dự, tôi cứ ngẫm nghĩ: máu của Tây
Ban Nha, Bồ Đào Nha và Phi Châu mạnh thật! Lục địa này đã được tô vẽ bằng đủ mọi
mầu da: trắng cũng có mà đen, nâu, cà phê sữa gì cũng có cả. Có ai chiêm ngưỡng
bức tranh túc cầu thế giới mà không nghĩ đến thế giới đại đồng, trong đó không
có mầu da nào là trội vượt hơn mầu da khác, trong đó mọi người đều có thể và phải
là anh em một nhà với nhau. Tôi không thể không nghĩ đến thế giới đại đồng ấy
khi xem trận thi đấu giữa đội tuyển Đức và đội tuyển Ghana, Phi Châu sáng chúa
Nhựt 22 tháng 6 vừa qua. Bên đội Đức có một cầu thủ tên là Jérôme Boateng. Bên
đội Ghana cũng có một cầu thủ tên là Kevin Prince Boateng. Thì ra đây là hai
anh em ruột thịt, nhưng họ đã chọn hai mầu cờ sắc áo khác nhau. Dù có đối nghịch
với nhau trên sân cỏ, hai cầu thủ này vẫn mãi mãi là anh em ruột thịt với nhau.
Mầu cờ sắc áo đã không thể chia cách được họ. Nhìn rộng ra, tôi cũng nghĩ rằng mầu
da chủng tộc không thể đặt các cầu thủ của các quốc gia vào cảnh không đội trời
chung với nhau. Sau một trận đấu, bên ngoài sân cỏ, bên kia mầu cờ sắc áo và
ngay cả mầu da chủng tộc, mọi người vẫn có thể là anh em với nhau.
Tình huynh đệ đại đồng của con người, được các cầu thủ
nêu cao, hẳn nhiên phải đặt nền tảng trên chính sự bình đẳng phát xuất từ chính
phẩm giá của con người. Đây hẳn phải là giá trị nền tảng được nêu cao trong các
vận động trường. Làm sao không nghĩ đến giá trị này khi nhìn thấy khẩu hiệu “No
to Racism” (Hãy nói không với chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc) cứ chốc chốc lại hiện
lên trong các bảng quảng cáo trong các sân vận động.
Khẩu hiệu này nhắc nhở tôi rằng bên kia mầu cờ sắc áo của
quốc gia dân tộc, bên kia mầu da của chủng tộc, mỗi người đều có một giá trị
bình đẳng như nhau. Nói như thế không có nghĩa là “đánh đồng” hay san bằng mọi
khác biệt và khoảng cách giữa người với người. Tài năng của các cầu thủ được phô
diễn trên sân cỏ cũng như mầu da của họ là một bằng chứng rõ ràng nhứt về sự
khác biệt giữa người với người. Thượng Đế dường như muốn thách thức con người
khi tạo dựng họ chẳng ai giống ai. Có người thông minh, có người đần độn. Có
người khỏe mạnh, có người ốm yếu. Có người xinh đẹp, có người xấu xí. Có người
tài ba, có người vụng về...Nhưng cái giá trị tiềm ẩn bên trong mỗi người thì lại
như nhau. Đó là thứ giá trị không thể đo lường được bằng bất cứ thước đo nào
trên trần gian này. Câu thơ được thi sĩ Bùi Giáng cảm tác để ca tụng cái vẻ đẹp
bên trong của người phụ nữ “Em ơi, em đẹp
vô cùng, vì em có cái lạ lùng bên trong”, có lẽ cũng nên được áp dụng cho
chính cái phẩm giá bất di nhượng và bất khả xâm phạm của mỗi một con người.
Nhận ra được giá trị và phẩm giá nội tại ấy của mỗi một
con người có khi đòi hỏi nơi tôi một sự can đảm phi thường. Tôi không biết mình
có đủ can đảm như ông thánh Phanxicô Assisi, vị thánh nổi tiếng của Kitô giáo
vào thời Trung cổ tại Ý không. Một ngày kia, vị thánh được thế giới ngày nay mệnh
danh là “sứ giả của hòa bình” này gặp một người phung cùi. Trước đó, với thánh
nhân, chỉ cần nhìn thấy một người phung cùi thôi cũng đủ đã tởm rồi. Vậy mà hôm
đó, với cái nhìn xuyên suốt để nhận ra phẩm giá của người phung cùi, ngài đã bước
xuống ngựa, ôm lấy anh và hôn anh. Kể từ sau cử chỉ ấy, ngày ngày thánh nhân đều
tìm đến nhà của những người bị đẩy ra bên lề xã hội ấy để được gần gũi với họ,
trở thành một người bạn của họ và ngay cả phục vụ họ như một đày tớ.
Tôi cũng tin rằng chính với niềm xác tín sâu xa về phẩm
giá nội tại cao cả của mỗi một con người mà dạo tháng 11 năm vừa qua Đức giáo
hoàng Phanxicô đã làm một cử chỉ thật cảm động: ngài đã ôm hôn một người đàn
ông mắc chứng bệnh mà y học gọi là “neurofibromatosis” loại một. Người mắc chứng
bệnh này trông chẳng khác nào một người phung cùi, với khuôn mặt dị dạng và lớp
da sần sù khiến không một ai muốn chạm đến hoặc đến gần. Ngay cả người cha ruột
của ông, hiện đang sống trong một viện dưỡng lão, dù được ông đến chăm sóc mỗi
ngày, cũng không muốn chạm đến người ông. Vậy mà Đức Phanxicô đã vượt qua được
mọi thứ rào cản để ôm hôn ông. Với cử chỉ này, nhà lãnh đạo của Giáo hội Công
giáo muốn cho thế giới thấy được giá trị thâm sâu của mỗi một con người và nhắn
gởi rằng chúng ta chẳng có gì để sợ hãi trước những dị biệt của người khác.
Cử chỉ của Đức Phanxicô không khỏi làm tôi nhớ lại câu
chuyện của Joseph Merrick (1862-1890). Merrick cũng mắc chứng
“neurofibromatosis” loại một như người đàn ông được Đức Phanxicô ôm hôn. Đầu và
thân thể ông dị dạng, xấu xí và gớm ghiếc
đến độ người ta đặt cho ông cái tên là “Người Voi”. Ông được một gánh xiếc nhốt vào chiếc cũi để mang
sang Bỉ làm trò cười cho thiên hạ. Nhưng nhờ một bác sĩ thương tình giúp đỡ,
Merrick đã được giải thoát khỏi gánh xiếc và được phục hồi nhân phẩm. Bên kia khuôn mặt và thân
hình dị dạng ấy, viên bác sĩ đầy lòng nhân ái đã nhìn ra được cả một tâm hồn nhạy
cảm và cao thượng. Về sau, trong những lá thư gởi cho người quen, Merrick lúc
nào cũng mượn một câu trong bài thơ có tựa đề “False Greatness” (sự vĩ đại giả
tạo) của thi sĩ Anh Isaac Watts
(1674-1748) để kết thúc: “I would be measured by the soul” (chỉ có thể đánh giá
tôi bằng tâm hồn của tôi mà thôi).
Thế giới ngày nay đã làm được không biết bao nhiêu bước
nhảy vọt vĩ đại trong những khám phá, phát minh và ứng dụng khoa học. Nhưng như
ai đó đã nói, có khi lên mặt trăng xem ra còn dễ hơn bước một bước đến gần với
người hàng xóm. Có biết bao nhiêu điều mà thi sĩ Watts đã gọi là “sự vĩ đại giả
tạo” đã khiến cho con người đui mù và điếc lác trước giá trị của người đồng loại
của mình. Suốt dòng lịch sử nhân loại, không biết bao nhiêu thiên tài đã xuất
hiện. Họ là những người có những tài năng mà người khác không có. Trong lãnh vực
nào chúng ta cũng thấy có người tài năng. Thể thao mà cụ thể là túc cầu là lãnh
vực có nhiều tài năng hơn cả. Tôi ngưỡng mộ các danh thủ. Nếu điều quan trọng
nhứt trong cuộc sống của tôi là trở thành một danh thủ, một nhà vô địch hay một
người nổi tiếng trong bất cứ lãnh vực nào, thì dĩ nhiên chỉ có một loại người để
tôi tôn trọng là những người nổi tiếng. Và vì chỉ biết có mỗi một hạng người nổi
tiếng như thế cho nên có thể tôi chẳng màng đến những người vô danh trong cái
đám đông vô danh, nhứt là những người vì một lý do nào đó bị đẩy ra bên lề xã hội.
Tôi biết tôi chẳng khác nào một người mù trước phẩm giá và giá trị nội tại của
mỗi một con người. Tôi chỉ chạy theo “sự vĩ đại giả tạo” vốn sẽ mai một với thời
gian.
Nhìn người như thế cho nên có lẽ tôi cũng chẳng ý thức được
chính giá trị của mình. Tôi là một người thiếu “tự trọng” theo đúng nghĩa. Mà kỳ
thực, khi đã thiếu “tự trọng” thì tôi cũng chẳng còn thực sự tôn trọng người
khác vì giá trị đích thực của họ cho bằng chạy chỉ chạy theo những thứ hào
nhoáng bên ngoài.
Tự trọng và tôn trọng, xét cho cùng, cũng chỉ là hai mặt
của một đồng tiền. Tôi không thể “tự trọng” mà đồng thời không tôn trọng giá trị
đích thực của người khác. Và ngược lại, khi tôn trọng giá trị đích thực của người
khác, tôi lại thấy mình mới thực sự biết “tự trọng”.
Trên thế giới ngày nay, vẫn còn triệu triệu con người mà
phẩm giá đang bị chà đạp và chối bỏ. Họ là những phụ nữ bị mang đi bán làm nô lệ
tình dục. Họ là các công nhân, vì kế sinh nhai, phải bị đày đọa trong những điều kiện làm việc vô
nhân đạo. Họ là những người tỵ nạn ngay trên chính quê hương của mình hoặc bị
trôi dạt vào một bến bờ vô định. Họ là những trẻ em lang thang đầu đường xó chợ,
không có cơ hội cắp sách đến trường và ngay cả phần lương thực mỗi ngày. Họ là
nạn nhân của những chế độ độc tài áp bức hay bạo lực gia đình. Họ là những bệnh
nhân đang quằn quại từng ngày trong giường bệnh, trong các viện dưỡng lão...Và
ngay trong cái xứ sở “may mắn” này, họ là vô số những người tôi gặp gỡ mỗi
ngày, mỗi người với một gánh nặng và nỗi khổ
riêng. Tôi tin rằng lòng “tự trọng” của tôi chỉ lớn thêm nếu tôi biết
nhìn họ không xuyên qua mầu da hay ngoại
diện, mà qua chính cái vẻ đẹp “lạ lùng”
bên trong mỗi người.
Chu Thập, 27.6.2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét