Thứ Sáu, 4 tháng 7, 2014

Bên kia mầu cờ sắc áo và mầu da chủng tộc


Blue Poles-Jackson Pollock

Thượng viện Liên bang Úc sẽ bắt đầu hoạt động với một “đội hình” mới vào đầu tháng 7, 2014 tới đây. Số phận của chính phủ Liên Đảng và dĩ nhiên cuộc sống của người dân tùy thuộc vào cuộc “đấu đá” sắp tới của Thượng viện.
Để tìm một hình tượng khả dĩ mô tả được bộ mặt mới của Thượng viện, thượng nghị sĩ độc lập đại diện cho tiểu bang Nam Úc là ông Nick Xenophon nói rằng nếu so sánh Thượng viện với một bức tranh thì ông cho rằng nó chẳng phải là một phong cảnh. Nó cũng chẳng phải là một bức tranh siêu thực của họa sĩ Pablo Picasso mà người ta muốn treo ngược, treo xuôi kiểu nào cũng được. Theo thượng nghị sĩ Xenophon, Thượng viện với bộ mặt mới sẽ giống như bức tranh “Blue Poles” (những cây trụ xanh) của họa sĩ  Mỹ Jackson Pollock hiện đang được treo ở Phòng Nghệ Thuật không cách xa Tòa nhà Quốc hội Liên bang bao nhiêu. Thoạt tiên, vào năm 1952, họa sĩ Pollock không đặt tên cho bức tranh mà chỉ đánh số “Number 11”. Hai năm sau, trong một cuộc triển lãm tại Sydney, bức tranh được đặt tên là “Blue Poles”. Năm 1973, Phòng triển lãm nghệ thuật Úc “National Gallery of Australia” đã mua lại bức tranh với giá 1.3 triệu Úc kim.
Tôi đã cố gắng vận dụng tất cả khả năng thưởng thức nghệ thuật của mình để chiêm ngưỡng bức tranh này. Nhưng thú thật, tôi thấy mình còn tệ hơn cả 5 người mù đi “xem” voi. Tôi chẳng “thấy” được gì cả. Với tôi đó chỉ là một mớ mầu sắc hỗn loạn được pha trộn với nhau. Phải chăng thượng nghị sĩ Xenophon muốn nói đến cái cảnh “bát nháo” ấy của Thượng viện Liên bang khi mang ra so sánh với bức tranh “Blue Poles” này ?
Sự so sánh của thượng nghị sĩ Xenephon gợi lên cho tôi một ý nghĩ: con người ta có thể hợp lại với nhau để làm nên một bức tranh. Tôi chưa được một lần đặt chân vào bên trong Quốc hội Liên bang để xem “bức tranh” ấy đẹp xấu như thế nào. Nhưng trong thời gian này, hầu như ngày nào tôi cũng được chiêm ngưỡng một bức tranh “đẹp”. Đó là bức tranh của các trận thi đấu trong  Giải Túc Cầu Thế Giới 2014 tại Ba Tây.

Với tôi, đây là một bức tranh muôn mầu, sặc sỡ, nhưng lại rất hài hòa. Trên khán đài lúc nào cũng đông nghẹt, mầu cờ sắc áo của khán giả tạo nên một cảnh vật, đúng như chúng ta thường nói, “đẹp như trong tranh”. Nhưng tôi thích nhìn ngắm mầu sắc trên sân cỏ hơn. Nếu có sự tham gia thi đấu của hai đội mạnh nhứt nhì Á Châu là Nhựt Bản và Đại Hàn, thì quả thực từ trắng, đen, vàng, nâu...mầu da nào cũng được tô đậm trên sân cỏ. Mỗi lần theo dõi một trận đấu có một đội của Châu Mỹ La Tinh tham dự, tôi cứ ngẫm nghĩ: máu của Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Phi Châu mạnh thật! Lục địa này đã được tô vẽ bằng đủ mọi mầu da: trắng cũng có mà đen, nâu, cà phê sữa gì cũng có cả. Có ai chiêm ngưỡng bức tranh túc cầu thế giới mà không nghĩ đến thế giới đại đồng, trong đó không có mầu da nào là trội vượt hơn mầu da khác, trong đó mọi người đều có thể và phải là anh em một nhà với nhau. Tôi không thể không nghĩ đến thế giới đại đồng ấy khi xem trận thi đấu giữa đội tuyển Đức và đội tuyển Ghana, Phi Châu sáng chúa Nhựt 22 tháng 6 vừa qua. Bên đội Đức có một cầu thủ tên là Jérôme Boateng. Bên đội Ghana cũng có một cầu thủ tên là Kevin Prince Boateng. Thì ra đây là hai anh em ruột thịt, nhưng họ đã chọn hai mầu cờ sắc áo khác nhau. Dù có đối nghịch với nhau trên sân cỏ, hai cầu thủ này vẫn mãi mãi là anh em ruột thịt với nhau. Mầu cờ sắc áo đã không thể chia cách được họ. Nhìn rộng ra, tôi cũng nghĩ rằng mầu da chủng tộc không thể đặt các cầu thủ của các quốc gia vào cảnh không đội trời chung với nhau. Sau một trận đấu, bên ngoài sân cỏ, bên kia mầu cờ sắc áo và ngay cả mầu da chủng tộc, mọi người vẫn có thể là anh em với nhau.
Tình huynh đệ đại đồng của con người, được các cầu thủ nêu cao, hẳn nhiên phải đặt nền tảng trên chính sự bình đẳng phát xuất từ chính phẩm giá của con người. Đây hẳn phải là giá trị nền tảng được nêu cao trong các vận động trường. Làm sao không nghĩ đến giá trị này khi nhìn thấy khẩu hiệu “No to Racism” (Hãy nói không với chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc) cứ chốc chốc lại hiện lên trong các bảng quảng cáo trong các sân vận động. Khẩu hiệu này nhắc nhở tôi rằng bên kia mầu cờ sắc áo của quốc gia dân tộc, bên kia mầu da của chủng tộc, mỗi người đều có một giá trị bình đẳng như nhau. Nói như thế không có nghĩa là “đánh đồng” hay san bằng mọi khác biệt và khoảng cách giữa người với người. Tài năng của các cầu thủ được phô diễn trên sân cỏ cũng như mầu da của họ là một bằng chứng rõ ràng nhứt về sự khác biệt giữa người với người. Thượng Đế dường như muốn thách thức con người khi tạo dựng họ chẳng ai giống ai. Có người thông minh, có người đần độn. Có người khỏe mạnh, có người ốm yếu. Có người xinh đẹp, có người xấu xí. Có người tài ba, có người vụng về...Nhưng cái giá trị tiềm ẩn bên trong mỗi người thì lại như nhau. Đó là thứ giá trị không thể đo lường được bằng bất cứ thước đo nào trên trần gian này. Câu thơ được thi sĩ Bùi Giáng cảm tác để ca tụng cái vẻ đẹp bên trong của người phụ nữ “Em ơi, em đẹp vô cùng, vì em có cái lạ lùng bên trong”, có lẽ cũng nên được áp dụng cho chính cái phẩm giá bất di nhượng và bất khả xâm phạm của mỗi một con người.
Nhận ra được giá trị và phẩm giá nội tại ấy của mỗi một con người có khi đòi hỏi nơi tôi một sự can đảm phi thường. Tôi không biết mình có đủ can đảm như ông thánh Phanxicô Assisi, vị thánh nổi tiếng của Kitô giáo vào thời Trung cổ tại Ý không. Một ngày kia, vị thánh được thế giới ngày nay mệnh danh là “sứ giả của hòa bình” này gặp một người phung cùi. Trước đó, với thánh nhân, chỉ cần nhìn thấy một người phung cùi thôi cũng đủ đã tởm rồi. Vậy mà hôm đó, với cái nhìn xuyên suốt để nhận ra phẩm giá của người phung cùi, ngài đã bước xuống ngựa, ôm lấy anh và hôn anh. Kể từ sau cử chỉ ấy, ngày ngày thánh nhân đều tìm đến nhà của những người bị đẩy ra bên lề xã hội ấy để được gần gũi với họ, trở thành một người bạn của họ và ngay cả phục vụ họ như một đày tớ.
Tôi cũng tin rằng chính với niềm xác tín sâu xa về phẩm giá nội tại cao cả của mỗi một con người mà dạo tháng 11 năm vừa qua Đức giáo hoàng Phanxicô đã làm một cử chỉ thật cảm động: ngài đã ôm hôn một người đàn ông mắc chứng bệnh mà y học gọi là “neurofibromatosis” loại một. Người mắc chứng bệnh này trông chẳng khác nào một người phung cùi, với khuôn mặt dị dạng và lớp da sần sù khiến không một ai muốn chạm đến hoặc đến gần. Ngay cả người cha ruột của ông, hiện đang sống trong một viện dưỡng lão, dù được ông đến chăm sóc mỗi ngày, cũng không muốn chạm đến người ông. Vậy mà Đức Phanxicô đã vượt qua được mọi thứ rào cản để ôm hôn ông. Với cử chỉ này, nhà lãnh đạo của Giáo hội Công giáo muốn cho thế giới thấy được giá trị thâm sâu của mỗi một con người và nhắn gởi rằng chúng ta chẳng có gì để sợ hãi trước những dị biệt của người khác.
Cử chỉ của Đức Phanxicô không khỏi làm tôi nhớ lại câu chuyện của Joseph Merrick (1862-1890). Merrick cũng mắc chứng “neurofibromatosis” loại một như người đàn ông được Đức Phanxicô ôm hôn. Đầu và thân thể ông dị dạng, xấu xí  và gớm ghiếc đến độ người ta đặt cho ông cái tên là “Người Voi”. Ông  được một gánh xiếc nhốt vào chiếc cũi để mang sang Bỉ làm trò cười cho thiên hạ. Nhưng nhờ một bác sĩ thương tình giúp đỡ, Merrick đã được giải thoát khỏi gánh xiếc và được  phục hồi nhân phẩm. Bên kia khuôn mặt và thân hình dị dạng ấy, viên bác sĩ đầy lòng nhân ái đã nhìn ra được cả một tâm hồn nhạy cảm và cao thượng. Về sau, trong những lá thư gởi cho người quen, Merrick lúc nào cũng mượn một câu trong bài thơ có tựa đề “False Greatness” (sự vĩ đại giả tạo) của thi sĩ Anh  Isaac Watts (1674-1748) để kết thúc: “I would be measured by the soul” (chỉ có thể đánh giá tôi bằng tâm hồn của tôi mà thôi).
Thế giới ngày nay đã làm được không biết bao nhiêu bước nhảy vọt vĩ đại trong những khám phá, phát minh và ứng dụng khoa học. Nhưng như ai đó đã nói, có khi lên mặt trăng xem ra còn dễ hơn bước một bước đến gần với người hàng xóm. Có biết bao nhiêu điều mà thi sĩ Watts đã gọi là “sự vĩ đại giả tạo” đã khiến cho con người đui mù và điếc lác trước giá trị của người đồng loại của mình. Suốt dòng lịch sử nhân loại, không biết bao nhiêu thiên tài đã xuất hiện. Họ là những người có những tài năng mà người khác không có. Trong lãnh vực nào chúng ta cũng thấy có người tài năng. Thể thao mà cụ thể là túc cầu là lãnh vực có nhiều tài năng hơn cả. Tôi ngưỡng mộ các danh thủ. Nếu điều quan trọng nhứt trong cuộc sống của tôi là trở thành một danh thủ, một nhà vô địch hay một người nổi tiếng trong bất cứ lãnh vực nào, thì dĩ nhiên chỉ có một loại người để tôi tôn trọng là những người nổi tiếng. Và vì chỉ biết có mỗi một hạng người nổi tiếng như thế cho nên có thể tôi chẳng màng đến những người vô danh trong cái đám đông vô danh, nhứt là những người vì một lý do nào đó bị đẩy ra bên lề xã hội. Tôi biết tôi chẳng khác nào một người mù trước phẩm giá và giá trị nội tại của mỗi một con người. Tôi chỉ chạy theo “sự vĩ đại giả tạo” vốn sẽ mai một với thời gian.
Nhìn người như thế cho nên có lẽ tôi cũng chẳng ý thức được chính giá trị của mình. Tôi là một người thiếu “tự trọng” theo đúng nghĩa. Mà kỳ thực, khi đã thiếu “tự trọng” thì tôi cũng chẳng còn thực sự tôn trọng người khác vì giá trị đích thực của họ cho bằng chạy chỉ chạy theo những thứ hào nhoáng bên ngoài.
Tự trọng và tôn trọng, xét cho cùng, cũng chỉ là hai mặt của một đồng tiền. Tôi không thể “tự trọng” mà đồng thời không tôn trọng giá trị đích thực của người khác. Và ngược lại, khi tôn trọng giá trị đích thực của người khác, tôi lại thấy mình mới thực sự biết “tự trọng”.
Trên thế giới ngày nay, vẫn còn triệu triệu con người mà phẩm giá đang bị chà đạp và chối bỏ. Họ là những phụ nữ bị mang đi bán làm nô lệ tình dục. Họ là các công nhân, vì kế sinh nhai, phải bị  đày đọa trong những điều kiện làm việc vô nhân đạo. Họ là những người tỵ nạn ngay trên chính quê hương của mình hoặc bị trôi dạt vào một bến bờ vô định. Họ là những trẻ em lang thang đầu đường xó chợ, không có cơ hội cắp sách đến trường và ngay cả phần lương thực mỗi ngày. Họ là nạn nhân của những chế độ độc tài áp bức hay bạo lực gia đình. Họ là những bệnh nhân đang quằn quại từng ngày trong giường bệnh, trong các viện dưỡng lão...Và ngay trong cái xứ sở “may mắn” này, họ là vô số những người tôi gặp gỡ mỗi ngày, mỗi người với một gánh nặng và nỗi khổ  riêng. Tôi tin rằng lòng “tự trọng” của tôi chỉ lớn thêm nếu tôi biết nhìn họ không xuyên  qua mầu da hay ngoại diện, mà qua chính cái vẻ đẹp “lạ lùng” bên trong mỗi người.
Chu Thập, 27.6.2014



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét