Chu
Thập
11/12/13
Hằng
năm, cứ bước vào tháng 12 là cái xóm nhỏ trong con đường cụt nơi tôi đang ở lại
sáng rực lên với đủ mọi loại đèn Giáng Sinh. Giáng Sinh là lễ được chuẩn bị nhiều
nhứt và lâu nhứt. Phần lớn các thứ chuẩn bị đều tập trung vào trang hoàng, thức
ăn, quà cáp và những chuyến đi chơi xa.
Riêng
tôi, một tín hữu Kitô, cứ đến nhà thờ trong dịp này, tôi lại được nhắc nhở về sự chuẩn bị tinh thần
nhiều hơn. Hầu như năm nào tôi cũng nghe lại lời kêu gọi từ ngàn xưa của một vị
tiên tri: “Hãy dọn đường cho Chúa;
hãy lấp mọi hố sâu, hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo, hãy làm cho ngay thẳng; con
đường gồ ghề, hãy san cho bằng. (sách Isaia 40,3-4)
Tôi
sinh tháng 12 cho nên năm nào vào dịp này tôi cũng đều nhìn lại “con đường”
mình đã đi qua. Vinh quang,
quyền lực thế trần thì chẳng có, túi tiền thì lúc nào cũng trống rỗng,
nhưng những hố sâu, những đoạn đường cong queo hay gồ ghề trong tâm hồn thì vô số kể. Đã bước vào cái tuổi
không còn đủ lạc quan để nhìn xa về phía trước, tôi chỉ còn biết ngó lại đàng
sau để nhận ra những do dự, vấp ngã, chùn bước, thối lui…trên con đường “làm
người” của mình. Năm
nào tôi cũng chuẩn bị tinh thần để cố gắng mừng lễ Giáng Sinh một cách có ý
nghĩa hơn. Bởi lẽ năm nào tôi cũng nhớ lại lời
cảnh cáo của thi sĩ Mỹ gốc Liban Kahlil Gibran (1883-1931): “Chúa Giêsu đã sinh ra 2
ngàn năm nay. Nhưng nếu Ngài chưa sinh ra trong bạn thì kể như Ngài chưa sinh
ra”.
Tôi
vẫn luôn ý thức rằng bao lâu xiềng xích nô lệ vẫn còn trói chặt tâm hồn tôi
thì bấy lâu Chúa Giêsu vẫn
chưa sinh ra trong tôi. Tôi vẫn
luôn nhận ra rằng bao lâu con đường tôi đi còn cong
queo và
lồi lõm
vì đủ mọi thứ tham sân si thì
tôi chưa thực sự là một con người tự do.
Trong
những ngày này, khi nhìn lại con đường mình đã đi qua, tôi thường chiêm nghiệm
về di sản mà cố tổng thống Nam Phi, Nelson Mandela, người vừa mới qua đời hôm 5
tháng 12 vừa qua, đã để lại cho thế giới. Con đường tù đày 27 năm của ông và cuộc
tranh đấu bất bạo động theo gương vị cha già dân tộc Ấn Độ Mohamas Gandhi, đã mang lại tự do cho
người dân Nam Phi. Ông đã thành công trong việc chống lại chủ nghĩa phân biệt
chủng tộc và mang lại tự do cho dân tộc bằng cuộc tranh đấu bất bạo động. Nhưng
với tôi, di sản mà cố tổng thống Nelson Mandela đã để lại chính là con đường tự do mà ông đã đi qua. Trong
quyển hồi ký có tựa đề “The long walk to
freedom” (cuộc
hành trình dài đến
tự do), ông đã nói đến con đường đó như sau: “Tôi đã đi qua con đường dài dẫn đến tự do ấy. Tôi đã cố gắng để không vấp
ngã, tôi đã có những bước sai lầm trên con đường này. Nhưng tôi đã khám phá ra
bí quyết: sau khi leo được một ngọn đồi cao, người ta lại thấy còn có nhiều ngọn
đồi khác
để leo.
Tôi đã có lúc dừng lại để
nghỉ ngơi, để nhìn ngắm vinh quang đang bao quanh tôi, để nhìn lại đoạn đường
tôi đã đi qua. Nhưng tôi chỉ có thể nghỉ ngơi một lúc, bởi vì tự do nào cũng
đòi hỏi
trách nhiệm và tôi không dám trì hoãn, bởi vì cuộc hành trình lâu dài chưa chấm
dứt”.
Quyển
hồi ký nói trên đã được ông Nelson Mandela chấp bút ngay từ trong nhà tù và
cho xuất bản năm 1994, tức năm ông trở thành người da đen đầu tiên lên làm tổng
thống Nam Phi, 4
năm sau khi ông được trả tự do. Lẽ ra, sau khi giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ
của chế độ phân biệt chủng tộc, vị cha già của dân tộc Nam Phi đã có quyền tuyên bố rằng mình đã
hoàn tất cuộc hành trình. Nhưng
với ông, cuộc hành trình tiến về tự do là một con đường
không bao giờ kết thúc.
Có lẽ ông muốn nhắn gởi với thế giới rằng còn sống là còn phải không ngừng “ra
đi”: ra đi khỏi cái tôi ích kỷ, nhỏ nhen, hận thù của mình. Trước khi mang lại tự
do cho dân tộc, Nelson Mandela đã thực
sự là một con người tự do. Ngay cả trước khi bước
ra khỏi nhà tù, ông cũng đã là một con người tự do, bởi vì ông không còn nuôi
dưỡng bất cứ sự thù hận nào đối với những người đã bách hại ông vì màu da của
ông hoặc
đã chối bỏ và chà đạp những quyền cơ bản của ông. Do đó, tự do mà ông muốn mang lại cho dân tộc Nam Phi
không chỉ là tự do khỏi sự đàn áp của chế
độ phân biệt chủng tộc, mà là tự do để có thể tha thứ cho chính kẻ thù của
mình. Mặc dù bị giam giữ đến 27 năm, Nelson Mandela không những tha thứ cho chế
độ phân biệt chủng tộc, mà còn thuyết phục đồng bào da đen của mình cũng hãy
tha thứ. Trong quyển hồi ký, ông viết: “Khi
ra khỏi tù, tôi thấy mình có sứ mệnh phải giải phóng cả người bị áp bức lẫn kẻ
áp bức”.
Ngày nay, sau hơn 20 năm thoát khỏi sự cai trị độc tài và tàn bạo của thiểu
số người da trắng, Nam Phi, mặc dù đã là thành viên của câu lạc bộ 20 nước giàu
mạnh trên thế giới, vẫn còn phải đối đầu với không biết bao nhiêu sự trì trệ.
Nhưng ít ra, thế giới đã không hề chứng kiến cảnh trả thù hay nồi da xáo thịt
giữa đại đa số người da đen và cộng đồng thiểu số da trắng. Sự hòa giải kỳ diệu
đang diễn ra tại Nam Phi chứng minh rằng bên kia những khác biệt về màu da, chủng
tộc, chính kiến hay ý thức hệ, con người vẫn có thể chung sống hòa hợp với
nhau. 27 năm tù đày của cố tổng thống Nelson Mandela đã không vô ích: ông đã chứng
minh được rằng sự tha thứ là sức mạnh mãnh liệt nhứt có thể cải tạo xã hội. Đó
là lý do khiến người dân Nam Phi, bất luận trắng đen, đều có thể “ăn mừng” và
nhảy hát theo truyền thống của họ trong những ngày này.
Suy niệm về di sản của ông, tôi không thể không tìm đọc lại
giai đoạn lịch sử 27 năm bị giam giữ của Nelson Mandela tại nhà tù khét tiếng
Robben Island. Ahmed Kathrada là một trong những người đồng chí hướng của
Nelson Mandela và đã từng bị kết án chung thân với ông tại nhà tù Robben Island.
Trong một cuộc phỏng vấn dành cho báo Anh The Observer năm 2011, ông Kathrada
đã ôn lại gương can đảm, sự quả cảm và tấm lòng hy sinh vô vị lợi của ông. Theo
ông Kathrada, trong tù, Mandela vẫn được đối xử một cách đặc biệt như một lãnh
tụ của Đảng ANC (African National Congress: Đảng Quốc đại Phi châu). Nhưng ông
không chấp nhận có sự khác biệt trong việc đối xử giữa các tù nhân. Ông muốn được
đi lao động và lãnh khẩu phần như mọi tù nhân khác.
Cũng theo lời ông Kathrada, tù nhân Nelson Mandela luôn
tìm cách gây ý thức về sự bình đẳng cho các tù nhân khác. Nhờ gương bất khuất của
ông mà không một tù nhân nào chịu cúi mình trước mặt các cai tù da trắng hay
làm bất cứ điều gì đánh mất phẩm giá con
người. Riêng Nelson Mandela lúc nào cũng nhấn mạnh rằng ông không phải là một vị
thánh, mà chỉ là một con người bình thường như mọi người và cũng đã từng phạm
sai lầm như mọi người.
Một cựu tù nhân khác tại Robben Island, nay là hướng dẫn
viên du lịch chuyên đưa người đi thăm nhà tù nổi tiếng này, giới thiệu với du
khách: “Đây là một hòn đảo. Đây là nơi bạn
sẽ chết”. Đó là những lời mà các cai tù đã dùng để ngỏ với tù nhân Nelson
Mandela trong ngày đầu tiên khi ông được đưa đến đây”. Ông kể tiếp rằng kể
từ lúc đặt chân lên đảo, tù nhân không còn hiện hữu như những con người nữa.
Tên tuổi và căn cước của họ bị xóa bỏ. Sau khi trùm vào người bộ đồng phục tù
nhân, mỗi người chỉ còn là một con số. Tù nhân Mandela mang số “46664”.
Ngoài điều kiện thời tiết khắc nghiệt tại Robben Island,
tù nhân còn phải chịu đựng những đối xử tàn bạo của các cai tù da trắng. Họ
không cần phải tra tấn tù nhân, mà chỉ cần giảm thiểu tối đa lượng nước uống,
biệt giam một thời gian lâu thì cũng có người trở thành điên loạn.
Nhưng người hướng dẫn viên du lịch cho biết một điều thú
vị: nhà tù là một đại học đối với các tù nhân. Trong tù, các tù nhân “dạy
nhau”. Có người vào tù là người thất học, đến khi ra tù đã có bằng cấp đại học;
người trở thành bác sĩ, kẻ làm luật sư hay giáo sư đại học.
Cũng như “người thày Mandela” và nhiều tù nhân khác, người
hướng dẫn viên du lịch không để lộ bất cứ một dấu hiệu nào của cay đắng, thù hận
mặc dù đã phải chịu đựng không biết bao nhiêu đau khổ và bất công. Cùng với
Mandela, người hướng dẫn viên du lịch này chứng tỏ cho thế giới thấy rằng thế
giới này luôn luôn là một nơi tốt đẹp hơn khi con người lấy sự tha thứ để vượt thắng
sự cay đắng, lấy hòa giải để thắng sự trả thù và lấy tình thương để thắng hận
thù.
Kết thúc một vòng viếng thăm nhà tù Robben Island, người
hướng dẫn viên du lịch thường nói với du khách: “Xin nhớ cho rằng tự do không phải từ trời rơi xuống”. Ý ông muốn
nhắn gởi rằng con đường đi đến tự do đích thực là một con đường chông gai, bởi
lẽ như Đức Phật đã nói: “Thắng trăm vạn
quân không bằng thắng chính mình. Chiến thắng chính mình là chiến công oanh liệt
nhứt”.
Cuộc chiến với chính mình là một cuộc chiến vô cùng khó
khăn và gian khổ. Kẻ thù có khi muôn mặt và ngụy trang dưới muôn vàn lớp sơn
hào nhoáng. Biết mình trăm trận trăm thắng là thế.
Cuộc chiến với chính mình cũng là một cuộc chiến khủng
khiếp bởi vì đó là một cuộc chiến liên lỉ và người chiến sĩ lại đơn thương độc
mã. Trong một cuộc chiến bình thường, có lúc người chiến sĩ còn được nghỉ ngơi
hay ngay cả từ giã vũ khí. Trong cuộc chiến với bản thân, người chiến sĩ không
được phép cho mình ngưng chiến đấu: mọi nơi, mọi lúc, mọi hoàn cảnh, phải luôn
luôn đề cao cảnh giác để nhận diện kẻ thù và chiến đấu.
Cuộc chiến với chính mình cũng khó khăn là bởi không có
người chỉ huy, cũng chẳng có bạn đồng hành và nhứt là cũng chẳng bao giờ được
tưởng thưởng. Chỉ có duy nhứt một quan tòa là lương tâm lúc nào cũng nhìn ngó và theo dõi ta trong nhứt cử nhứt động!
Thắng được một cuộc chiến như thế mới thực sự là oanh liệt!
Đây chính là cuộc chiến mà cố tổng thống Nelson Mandela
đã trải qua. Đây chính là chiến thắng mà ông đã đạt được. Đây chính là con đường
mà ông đã đi qua. Đó là con đường tự do đích thực đã giúp ông mang lại tự do cho
dân tộc Nam Phi.
Cố tổng thống Nelson Mandela đã chấm dứt cuộc hành trình
dương thế của ông. Giờ đây, trong giấc ngủ ngàn thu, ông có quyền nói rằng con
đường tự do, cuộc chiến đấu của ông đã kết thúc và di sản mà ông muốn để lại
cho dân tộc mình cũng như toàn thế giới chính là sức mạnh của sự tha thứ và hòa
giải.
Tôi sẽ chuẩn bị tinh thần như thế nào để mừng lễ Giáng
Sinh năm nay nếu không phải là cố gắng sống di sản của tha thứ và hòa giải mà cố
tổng thống Nelson Mandela đã để lại, bởi vì Giáng Sinh vẫn mãi mãi là lễ của
Hòa Bình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét