Chu Thập
17/12/13
Ở bậc trung học, khi học về thời kỳ Văn nghệ Phục hưng tại Âu Châu (từ thế
kỷ 14 đến 17), tôi rất thích ngắm những bức tranh của họa sĩ Pháp George de La Tour
(1593-1652). Chủ đề nổi bật nhứt trong các tác phẩm của
ông là cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối. Hầu như trong bất cứ bức tranh nào
của ông cũng đều có một ngọn nến, có khi được đặt trên bàn để soi sáng một căn
phòng tối, có khi được ai đó cầm trên tay: ánh sáng lúc nào cũng làm rạng ngời
khuôn mặt của những người đang hiện diện trong phòng.
Khi cho xem những bức tranh của họa sĩ George de La Tour, thày tôi dẫn giải
rằng ngay cả trong đêm tối cũng vẫn luôn có dấu vết của ánh sáng, có lúc hiển hiện có lúc ẩn tàng. Theo thày tôi, ngay cả những nơi
hay những lúc bóng tối tưởng như chiến thắng, đôi mắt của chúng ta vẫn cứ bị
thu hút bởi ánh sáng vốn luôn hiện diện, cho dù có bị che khuất đàng sau những
áng mây đen dày đặc. Chính vầng trăng và các vì tinh tú mang lại một bộ mặt mới
cho đêm tối và mời gọi chúng ta tìm kiếm cái đẹp ẩn tàng trong đêm đen.
Đây là bài học mà cho tới nay, dù sau cả nửa thế kỷ, tôi vẫn còn ghi nhớ và mỗi khi có dịp
lại đem ra suy nghĩ và nghiền ngẫm. Đặc biệt nhân cái chết và tang lễ của cố tổng
thống Nelson Mandela, tôi lại càng nhớ đến bài học của thời trung học này.
Mandela quả đã xứng đáng để được thế giới đưa vào điện thờ dành riêng cho
các bậc vĩ nhân. Được trả tự do sau 27 năm bị giam tù, con người suốt một đời
tranh đấu để giải phóng dân tộc khỏi chế độ phân biệt chủng tộc và áp bức của
thiểu số người da trắng, đã không nuôi dưỡng bất cứ thù hận nào trong tâm hồn.
Nhờ sự tha thứ và hòa giải, không những ông đã mang lại tự do cho những người bị
áp bức, mà còn giải phóng chính những kẻ áp bức.
Nhưng nếu như hào quang bao phủ xung quanh ông có sáng
ngời là bởi vì, như ông vẫn luôn nhìn
nhận lúc còn trong tù, ông cũng chỉ là một con người như mọi người. Một con người
cũng có đầy tham sân si như mọi người. Một con người có lúc cũng bị lên án như
một tên khủng bố. Dù có “phong thánh” cho ông, thế giới không thể và không nên
quên rằng năm 1961, ông đã có lúc chia tay với những người bạn trong Đảng Quốc
Đại Phi Châu (African National Congress) chỉ vì họ chủ trương tranh đấu bất bạo
động, để thành lập một tổ chức khủng bố. Sau đó, ông bị mang ra xét xử vì những
hành vi bạo động. Năm 1983, chính ông đã tham gia vào một vụ đánh bom bằng xe
khiến 19 người bị thiệt mạng. Ông không ngần ngại kêu gọi xẻo mũi những người
da đen nào cộng tác với chế độ của người da trắng. Ông nói rằng chế độ phân biệt
chủng tộc không để ông có một chọn lựa nào khác hơn là lấy bạo động chống lại bạo
động.
Có lẽ đó là khía cạnh đen tối nhứt trong cuộc đời tranh đấu của ông. Nhưng
những năm tháng bị giam giữ tại nhà tù “Robben Island” đã biến đổi ông thành một
con người mới. Bóng đêm của thù hận trong tâm hồn ông đã từ từ rút lui để nhường
bước cho ánh sáng của tha thứ và hòa giải. Nơi ông, tôi thấy bài học mà thày
tôi đã dạy khi dẫn giải về ý nghĩa của những bức tranh của họa sĩ George de La
Tour đã thực sự được ứng nghiệm. “Cuộc
hành trình dài tiến đến tự do” (The long walk to freedom) của ông chính là
cuộc hành trình từ bóng tối của Hận thù tiến đến Ánh sáng của Hòa giải và Tha
thứ. Nơi ông, Ánh sáng của Sự Sống, của
Hy Vọng, của Tha thứ và Hòa giải, đã xua tan bóng tối của Sự Chết, của Thất vọng,
của Hận Thù.
Tôi cũng nhìn thấy một cuộc hành trình như thế xuyên qua cuộc đời và sự
nghiệp của văn hào Nga Fyodor Dostoyevsky (1821-1881). Cuộc chiến giữa Ánh sáng
và Bóng tối trong chính cuộc đời của ông đã được diễn tả qua các tác phẩm của
ông. Vào tù vì tham gia vào một cuộc âm mưu lật đổ Nga hoàng Nicolas I, ông bị
đày đi lao động khổ sai tại Tây Bá Lợi Á. Nhưng cũng chính 4 năm lao động khổ
sai và 6 năm lưu đày biệt xứ đã biến đổi ông thành một con người mới: giữa bao
khốn khổ, ông vẫn giữ được niềm hy vọng và tinh thần lạc quan. Chính trong nơi
tù đày mà ông đã khám phá ra rằng “Sống là một ân huệ”, “Sống là hạnh phúc, mỗi
phút đều có thể là một niềm hạnh phúc miên viễn”. Nhưng dĩ nhiên, cuộc hành
trình tiến về tự do của Dostoyevski không phải lúc nào cũng bằng phẳng. Sau những
năm tháng khốn khổ nơi tù đày là những chuỗi ngày đầy gian khổ trong cuộc vật lộn
với cuộc sống và chiến đấu với bao nhiêu cạm bẫy. Có lúc ngã gục, nhưng lúc nào
đại văn hào này cũng đứng lên với tất cả tin tưởng và lạc quan, bởi vì trong
tăm tối của thất bại và thử thách, ông luôn nhận ra ánh sáng của hy vọng. Cũng
như cố tổng thống Nelson Mandela, cứ lên đến một đỉnh đồi, Dostoyevski lại nhìn
thấy những ngọn đồi khác ở phía trước. Sứ điệp của những bậc vĩ nhân đích thực
của thế giới luôn giống nhau: còn sống là còn chiến đấu, còn bước đi là còn phải
trải qua những lúc bị bao vây bởi bóng đêm dày đặc trước mặt, nhưng lúc nào
cũng luôn tỉnh táo để nhận ra ánh sáng ngay trong bóng tối. Xét cho cùng, vĩ
nhân nào cũng đều là một người khiêm tốn, luôn nhận ra mình là một con người mỏng
dòn yếu đuối, nhưng lúc nào cũng tin tưởng và lạc quan.
Tôi nhận ra nét khiêm tốn, nhưng đầy tin tưởng và lạc quan ấy nơi Đức
Phanxicô, nhà lãnh đạo của Giáo hội Công giáo vừa được tạp chí Time chọn làm
“người của năm 2013”. Nếu nhìn vào những thành quả hiển hách để mà tán thưởng
thì chắc chắn vị giáo hoàng chưa làm nên “trò trống” gì cả, ngoài một vài thay
đổi trong cá nhân ngài hơn là trong cơ cấu của Giáo hội. Chẳng hạn, ngài đã có
thể cởi bỏ những “râu ria” phù phiếm trên con người của vị giáo hoàng như đôi
giày màu đỏ, cây thánh giá có nạm kim cương, chiếc nhẫn bằng vàng hoặc mỗi khi
đi công du tự tay cầm chiếc xách tay có chứa đựng các vật dụng cá nhân...Đơn
sơ, khiêm tốn, gần gũi với mọi người: đó là nét nổi bật trong con người vị giáo
hoàng này. Bà Nancy Gibbs, chủ bút của tạp chí Time đã giải thích tại sao chọn
đức Phanxicô làm “người của năm 2013” như sau: ngài đã “kéo vị giáo hoàng ra khỏi
cung điện và đưa vào các ngã đường, đã đặt Giáo hội lớn nhứt thế giới vào chỗ
phải đối diện với những nhu cầu sâu xa nhứt của nó và đã quân bình sự phán xét
với lòng nhân từ”. Nhận định sau cùng gợi lại cho tôi câu trả lời nổi tiếng của
ngài khi được hỏi về lập trường của ngài đối với những người đồng tính luyến
ái: “Tôi là ai để đoán xét họ?”
Chính thái độ khiêm tốn và cảm thông của Đức Phanxicô là sức mạnh lôi kéo
nhiều người đến với ngài. Với tôi, vị thày dạy “nhân bản” đích thực là người
khiêm tốn, luôn tự đặt mình vào hàng ngũ những người đi tìm kiếm và học hỏi hơn
là phán dạy và áp đặt.
Dường như Đức Khổng Phu Tử cũng có một thái độ như thế trong suốt sự nghiệp
“giảng dạy” của ngài. Theo một giai thoại, một hôm có người đội nón tơi, đi
chân đất, dáng như ăn mày đến xin theo học với ngài. Tử Hạ là người được phân
công ra tiếp. Tử Hạ hỏi: “Anh muốn làm học trò của Phu Tử với mục đích gì?” Người
ấy không trả lời mà hỏi lại: “Anh hãy cho tôi hỏi trước: anh học thày Phu Tử để
làm gì?” Nghe thế, Tử Hạ hơi khó chịu, nhưng vẫn nhã nhặn giải thích: “Bình
sinh ta học với thày Phu Tử chỉ cố để làm người”. Người ấy hỏi tiếp: “Thế đã
làm người được chưa?” Tử Hạ vẫn cố gắng tỏ ra nhã nhặn: “Tất nhiên là chưa, cho
nên vẫn đang phải học tiếp”. Kẻ muốn xin thụ giáo Đức Phu Tử lại nói: “Thì ra
thiên hạ đều cùng một giuộc cả. Kẻ nào cũng chỉ được cái leo lẻo cái lỗ mồm. Có
biết đâu rằng làm người mà dở dang thì chi bằng làm vật quách cho rồi. Còn tôi,
muốn làm học trò của Đức Phu Tử chỉ cốt để được ăn thịt mà thôi”.
Nghe đến đây, Tử Hạ tròn mắt ngạc nhiên, bởi vì chưa từng nghe ai trả lời
như thế bao giờ. Tử Hạ hỏi tiếp: “Tại sao anh lại nghĩ rằng làm học trò của Đức
Phu Tử thì sẽ được ăn thịt?” Người ấy trả lời: “Tôi nghe nói Phu Tử thịt thái
không vuông thì không ăn. Mà con heo, con gà, con bò...có con nào vuông đâu. Thế
thì dứt khoát sẽ có nhiều chỗ phải bỏ đi. Tôi chỉ xin được chén những chỗ bỏ đi
ấy mà thôi”.
Tử Hạ nghe nói cảm thấy người ấy nói có lý. Nhưng vì chưa biết phải quyết định
ra sao, đành phải vào thưa lại với Khổng Tử. Khổng Tử ngần người ra một lúc rồi
như giác ngộ liền bảo: “Kẻ ấy chính là thày ta đó. Ta vốn đã để ý dò tìm bấy
lâu nay mà chưa tìm thấy. Ngươi mau ra mời người ấy vào để chính ta phải làm lễ
bái sư”. Tử Hạ vội vàng chạy ra thì người kia đã bỏ đi đâu mất.
Tôi không rõ câu chuyện có thật không. Nhưng luôn nhận ra những sai lầm của
mình và chấp nhận được người khác chỉ giáo là thái độ khiêm tốn cố hữu của Đức
Khổng Tử. Bậc thánh hiền đích thực của nhân loại chính là người luôn có thái độ
khiêm tốn như thế. Và dĩ nhiên, bài học về khiêm tốn thì không bao giờ lỗi thời.
Ở đâu và thời đại nào con người cũng luôn đề cao thái độ khiêm tốn. Thế giới
không ngừng tiến bộ, nhưng vẫn mãi mãi cần thái độ khiêm tốn, bởi vì chỉ có sự
khiêm tốn đích thực, tức nhận ra những giới hạn của mình, mới có thể là động lực
thúc đẩy con người cầu tiến. Thành ra, trái với thái độ tự mãn và tự kiêu,
khiêm tốn cũng luôn đi đôi với tin tưởng và lạc quan.
Trong nhiều sứ điệp của Lễ Giáng Sinh, tôi thường nghĩ đến niềm Hy Vọng.
Ánh đèn muôn mầu được giăng mắc khắp nơi, trong giáo đường, ngoài phố chợ,
trong nhà ngoài ngõ...luôn mách bảo tôi rằng trong bóng đêm sự ích kỷ và thù hận vẫn luôn lóe lên ánh sáng của hy vọng
và tin yêu.
Tôi thích màn quảng cáo trên truyền hình của tổ chức “Mé decins sans frontières” (Hội y sĩ không
biên giới). Ở một nơi xa xôi hẻo lánh nào đó bên Phi Châu, các bác sĩ đang thực
hiện một cuộc giải phẫu trong một bệnh viện dã chiến. Bỗng nhiên, hơi điện bị
cúp, đèn tắt, cuộc giải phẫu đành phải bị gián đoạn. Nhưng cũng ở một nơi nào
đó tại một nước văn minh, chỉ cần một người bốc điện thoại bấm vào số của tổ chức
Hội y sĩ không biên giới, máy phát điện hoạt động trở lại, phòng giải phẫu được
sáng lên và dĩ nhiên, một mạng người được cứu sống.
Mỗi dịp Giáng Sinh về, lời kêu gọi
chia sẻ và tỏ tình liên đới luôn được đáp trả một cách quảng đại, bóng đêm của
chiến tranh và thiên tai bị đẩy lui, ánh sáng của tình người mang lại sự sống
và niềm vui cho không biết bao nhiêu người khốn khổ trên khắp thế giới. Tôi vẫn
luôn tin tưởng như thế.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét