Thứ Sáu, 8 tháng 12, 2017

Nhớ vườn


Chu Thập
 01/12/17
Dường như người già thường có những nỗi nhớ không giống ai. Như một ông bạn già của tôi chẳng hạn. Được tôi rủ đi chơi xa bằng xe, ổng nao nức như trẻ con. Nhưng đi được mới 2 ngày, ổng đòi về. Hỏi tại sao, bạn già của tôi trả lời với giọng thiểu não: nhớ mấy con chim cút quá!
“Trông người lại nghĩ đến ta”. Tôi cũng có một tâm trạng y chang. Trước ngày lên đường, tôi cũng nôn nao không kém ông bạn già. Vậy mà chỉ “chơi” được vài ngày, tôi lại cảm thấy nhớ nhà và cũng mong cho cuộc vui chóng tàn để về nhà. Thật ra, đối tượng chính xác của nỗi nhung nhớ của tôi không hẳn là ngôi nhà. Ngày xưa, lúc còn đi học xa, tôi mong ngóng từng ngày để được trở về nhà: nhà là không gian trong ngôi nhà của ông bà tổ tiên để lại, nhà là nơi tôi được chôn nhau cắt rún theo đúng nghĩa, nhà là nơi tôi sống với những người thân của mình. Tôi nhớ nhung từng căn phòng, từng cái giường, từng góc nhỏ trong nhà. Nhưng kể từ ngày bỏ nước ra đi, tôi không còn một ngôi nhà như thế để trông đứng trông ngồi hầu được trở về nữa. Trong hơn 30 năm sống kiếp ly hương, tôi đổi nhà không biết bao nhiêu lần. Có nơi tôi ở đến cả 15 năm. Vậy mà cuối cùng cũng đành bỏ đi và chẳng thấy lưu luyến nhớ nhung gì cả.
Đi sâu vào nỗi nhớ, tôi mới “ngộ” ra rằng điều tôi nhớ nhứt mỗi khi đi xa không phải là ngôi nhà tôi đang ở cho bằng mảnh vườn xung quanh nhà. Định mệnh đã trói buộc tôi với đất đai. Tôi sinh ra và lớn lên ở nhà quê. Cha tôi là một nông dân thứ thiệt. Trong “Biên bản thế vì khai sinh” của tôi có 2 người làm chứng hẳn hoi, cha tôi khai rõ nghề nghiệp của ông là “làm nông”. Đó là nghề cha truyền con nối. Mới 3, 4 tuổi, tôi đã biết đi ruộng. Đi học xa và được tắm biển mỗi ngày, chân tôi có được tẩy phèn, nhưng “cái cốt” nông dân của tôi vẫn còn đó. Cứ hễ có dịp về nhà, những bước chân đầu tiên của tôi đều hướng ra ruộng. Ở đó, những buổi chiều tà, tôi ngắm được mầu mạ xanh, tôi nghe được mùi lúa vừa trổ đòng đòng và dĩ nhiên tôi cũng cảm được niềm vui và nhứt là nỗi lo của cha tôi. Có những năm, thuốc trừ sâu không còn hiệu nghiệm, lũ giặc rầy phá hại toàn bộ mùa màng, tôi thấy khóe mắt của cha tôi ươn ướt. Hai cha con nhìn nhau bất lực. Coi như bồ lúa trong nhà trống trơn. Mẹ tôi phải vun vén thật khéo mới có đủ gạo ăn và dư chút đỉnh để đóng học phí cho con cái.
Nhà nông cơ cực thế đó. Nhưng không hiểu tại sao tôi vẫn mơ được làm “nông dân”. Ngày nay, không có ruộng để cày bừa, gieo trồng, nhưng dù  tạm cư ở bất cứ nơi nào, hễ thấy có đất là tôi làm vườn. Mà đã có một mảnh vườn thì xa nhà là tôi thấy nhớ. Vườn là một phần của cuộc sống của tôi. Vườn, như tác giả Michael Polland đã viết trong cuốn sách “Second Nature: A Garderner’s Education” (Bản chất thứ hai: giáo dục người làm vườn),  “là một nơi diễn ra cuộc đối thoại giữa con người và thiên nhiên”.
Vườn là nơi tôi “động não” để suy nghĩ và giúp tôi thư giãn nhiều nhứt. Cây cỏ và loài người đã chung sống với nhau từ nhiều chục ngàn năm qua. Nhưng giữa hai bên vẫn có một mối quan hệ kỳ lạ. Một mặt ai trong chúng ta cũng biết rằng cây cỏ và thiên nhiên nói chung bảo tồn sự sống của con người, mang lại niềm cảm hứng và hy vọng cho con người. Nhưng mặt khác, có lẽ con người chỉ xem cây cỏ và thiên nhiên như một phương tiện để sống còn hơn là một người bạn đồng hành. Đọc lại câu chuyện “đại  hồng thủy” trong Kinh Thánh của Do thái và Kitô giáo, tôi thấy dường như sự hiện diện của cây cỏ chỉ được đặt vào hạng thứ yếu. Tất cả mọi loài thú vật đều được đưa lên “con tàu Noe” theo từng cặp. Tôi không hiểu tại sao không có lấy một cây cỏ nào có vé lên tàu của ông Noe. Có lẽ ông Noe đã không xem cây cỏ như loài có sự sống.
Nếu như thú vật, như thú cưng chẳng hạn, có thể đi vào quan hệ thân thiết với con người thì cây cỏ cũng cần phải có được vinh dự ấy. Sở dĩ cây cỏ cần được dành cho một vinh dự như thế, bởi vì cây cỏ dạy cho loài người rất nhiều bài học quan trọng và cần thiết cho cuộc sống.
Một trong những bài học mà mỗi khi “ngồi thiền” trong mảnh vườn sau nhà tôi thường học được chính là: ai cũng phải chết! Con người thường chạy trốn sự thật. Thế giới càng văn minh tiến bộ, con người càng phát minh ra đủ mọi phương tiện kỹ thuật và mọi thú tiêu khiển để khỏi phải đối đầu với sự thật cốt lõi của cuộc sống là mình sẽ phải chết. Nhưng một khi đã ngồi giữa một ngôi vườn, tôi biết rằng mình không thể thoát khỏi sự thật ấy. Sự sống, cái chết, sự phân hủy và sự vươn lên...đó là một chu kỳ đang diễn ra trước mắt tôi mỗi khi tôi chiêm ngắm một ngôi vườn. Vườn là nơi mà những sự thật và huyền nhiệm của sự sống lúc nào cũng trải bày ra trước mắt tôi.
Mảnh vườn xung quanh nhà cũng dạy tôi biết quan sát và đánh giá sự vật. Có làm vườn, nghĩa là có tự tay gieo trồng, tưới tẩm, chăm sóc từng cây cỏ, luống rau để có cái mà ăn tôi mới hiểu được thời giờ phải bỏ ra, công lao mồ hôi nước mắt phải đổ ra và nhờ đó mới thấy được giá trị của thực phẩm mình tiêu dùng hàng ngày. Dĩ nhiên không phải giá trị theo giá thị trường hay giá cả trong siêu thị, mà là thứ giá trị mà không một đơn vị mua sắm nào có thể đo lường được. Biết như thế để trân quý, để thưởng thức với hân hoan và tri ân, chớ không phải để phung phí hay vứt bỏ một cách bừa bãi. Nhứt là biết như thế để cảm thông với nhà nông và mở rộng trái tim và đôi bàn tay để chia sớt cho không biết bao nhiêu người đang túng đói trên khắp mặt đất này.
Như vậy, mảnh vườn xung quanh nhà do tôi tự tay chăm sóc, cây cỏ và rau quả do tôi tự tay gieo trồng và tưới tẩm cũng giúp tôi nhìn thấy giá trị đích thực của mọi sự vật. Cây cỏ mở mắt tôi để tôi nhận thấy rằng những sự vật như vàng bạc, kim cương hay vô số những thứ hào nhoáng khác trong cuộc sống đều vô giá trị. Nước, cây cỏ, rau quả, ong bướm và vô số những anh hùng thầm lặng như các loài giun dế côn trùng có giá trị hơn mọi thứ vàng bạc châu báu trên thế giới này, bởi vì nếu không có chúng thì sự sống trên trái đất này không thể hiện hữu và tồn tại. Cuốn phim có tựa đề “The Martian” (người Hỏa tinh) mà tôi đã có dịp xem hồi năm 2015 đã nói lên chân lý ấy: không có nước, không có hạt giống thì đừng mong có sự sống hay bảo tồn sự sống trên Hỏa tinh.
Càng nhìn ngắm, càng chiêm ngưỡng thiên nhiên...tôi càng “ngộ”  ra rằng không có lớp học nào giúp tôi học được những sự thật căn bản trong cuộc sống cho bằng mảnh vườn do tôi tự tay chăm sóc.
Nhưng trong nhiều bài học mà cây cỏ và thiên nhiên dạy cho tôi thì bài học về niềm hy vọng là điều quan trọng hơn cả. Mới đây,  một băng hình được quay tại Thành phố Aleppo, miền Bắc Syria đã được phát tán ra ngoài. Aleppo là một địa danh chỉ gợi lên đau thương tang tóc và vô số những cảnh độc ác dã man kể từ khi tổ chức khủng bố “Quốc gia Hồi giáo” chiếm đóng và cuộc nội chiến tàn bạo biến đất nước Syria thành một bãi tha ma. Trong băng hình, giữa cảnh đổ nát và máu lửa, người ta thấy một người đàn ông vẫn tiếp tục bán hoa và cây non. Từ những thước phim ngắn ngủi, thế giới bên ngoài đã đọc được một thông điệp rõ ràng: người bán hoa và khách hàng của ông vẫn cảm thấy cần phải nuôi dưỡng niềm hy vọng giữa cảnh hoang tàng đổ nát. Một trong những khách hàng giải thích: “Đối với chúng tôi, làm cho những nơi chúng tôi có mặt được xinh đẹp mang lại ý nghĩa cho cuộc sống. Điều này giúp mọi người lên tinh thần. Do đó, chúng tôi không chỉ nhìn thấy có sự  hủy hoại mà còn nhận ra những cố gắng xây dựng. Chúng tôi tiếp tục sống và tái thiết những gì đã bị phá hủy” (x. Georgina Reid, Gardening can change the world, Diggers Festive Gardens 2017).
Tôi không thể tưởng tượng được liệu trong một nơi chỉ có hoang tàn đổ nát và chết chóc như thành phố Aleppo người ta có thể nuôi dưỡng niềm hy vọng không. Mọi sự cứ diễn ra như “dã tràng xây cát biển Đông”.  Nhưng niềm hy vọng vẫn là lá bài chủ trong canh bạc tưởng đã thua trắng. Niềm hy vọng luôn có sức mang lại sự thay đổi. Và không có một nơi nào nuôi dưỡng niềm hy vọng cho bằng một mảnh vườn. Khi gieo trồng, tôi không chỉ đặt vào lòng đất một hạt giống. Khi đặt một cây non xuống đất, tôi không chỉ làm cho đất đai được xanh tươi. Khi canh tác đất đai, tôi không chỉ trông chờ mùa thu hoạch và nghĩ tới nhu cầu trước mắt là hưởng được hoa trái của công lao mồ hôi nước mắt của mình. Với tôi, làm vườn chính là gieo trồng và nuôi dưỡng niềm hy vọng. Hy vọng, như Giám mục Desmond Tutu, khôi nguyên giải Nobel Hòa Bình, người đã từng tranh đấu cho quyền bình đẳng của người da đen tại Nam Phi, đã nói: là vẫn có thể nhìn thấy ánh sáng mặc dù xung quanh chỉ toàn là bóng tối. Khi được gieo vào lòng đất, hạt giống cần phải thối rữa đi mới có thể nẩy mầm. Giữa bóng tối của thất bại, mất mát, khổ đau và ngay cả sự chết, niềm hy vọng vẫn có sức làm cho ánh sáng của sự sống bừng dậy. Cây cỏ trong vườn luôn gợi lên cho tôi một niềm hy vọng như thế.
Tôi không thuộc truyện Kiều của cụ Nguyễn Du cho lắm. Nhưng cứ mỗi lần nhìn sự thay đổi của vạn vật và nhứt là cây cỏ trong mảnh vườn xung quanh nhà, tôi không thể không  nghĩ đến câu thơ mà năm 2000, khi đến Việt Nam, Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã trích dẫn để nói lên mối quan hệ ngày càng khởi sắc giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Tổng thống Bill Clinton đã “lẩy”: “Sen tàn cúc lại nở hoa. Sầu dài ngày ngắn, đông đà sang xuân”.
Ở vùng tôi ở không có mùa thu lá rụng hay lá bay như tại nhiều nước ôn đới khác. Nhưng ở bất cứ mùa nào, tôi cũng thấy có hiện tượng phân hủy và đâm chồi nẩy lộc. Xuân hạ thu đông, bốn mùa cứ tiếp nối nhau. Có lá rụng về cội thì cũng có hạt giống nẩy mầm. Trong cái chết vẫn tiềm ẩn sự sống. “Hạt bụi nào đã hóa kiếp thân tôi” để rồi mai kia tôi lại trở về với cát bụi thôi. Nhưng một khi đã hóa kiếp trong tôi thì một cách nào đó hạt bụi cũng sẽ trở thành bất tử. Nó sẽ tiếp tục sống nơi cây cỏ hay trong một người nào đó.
Nhìn ngắm cây cỏ trong vườn, tôi nghĩ đến không biết bao nhiêu hạt bụi đã hóa thân qua không biết bao nhiêu kiếp người, kiếp vật, kiếp cỏ cây. Một phần của ai đó đang sống trong cây cỏ và thiên nhiên. Chính vì thế mà thiên nhiên cần được tôi tôn trọng, chăm sóc, bảo tồn và yêu mến. Một quan hệ như thế giữa tôi và thiên nhiên đương nhiên sẽ mang lại cho tôi an bình và thư giãn. Tôi hiểu được tại sao mỗi khi xa nhà, tôi luôn thấy “nhớ vườn”!




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét