Thứ Sáu, 7 tháng 7, 2017

Xin đừng hỏi tại sao tôi nghèo


Chu Thập
30/06/17
Năm nào ở Úc cũng có một bảng xếp hạng những người được tin tưởng nhứt. Đứng đầu danh sách của 30 ngành nghề chính  được dân chúng Úc tin tưởng nhứt lúc nào cũng là các y tá và đội sổ lúc nào cũng là dân bán xe. Riêng các chính trị gia, nhứt là các ông bà dân biểu và nghị sĩ lại không được dân chúng Úc tín nhiệm mấy: xếp hạng 23 là các nghị viên tiểu bang; ở cấp liên bang thì những vị đại diện của dân lại tụt xuống hạng 25.
Theo dõi sinh hoạt trong nghị trường Úc, nhứt là trong các phiên họp Quốc hội Liên bang, tôi thường liên tưởng  đến những hoạt cảnh trên sân khấu. Chính trường cũng là một thứ sân khấu và các chính trị gia cũng là những diễn viên. Mỗi lần “ngồi” họp (sitting) trong Quốc hội, các vị đấu võ mồm nghe chan chát. Nhưng ra ngoài thì các vị cũng tay bắt mặt mừng hể hả.
Mới đây, vui nhứt trên sân khấu chính trị là những nụ cười tươi rói của các ông bà nghị khi Tòa Ân Thưởng (Remuneration Tribunal) loan báo tăng lương cho các vị đến 2 phần trăm, cùng với nhiều thứ giảm thuế khác nữa. Như đương kim Thủ tướng Malcolm Turnbull chẳng hạn, vốn đã là một triệu phú tầm cỡ ở Úc, sẽ lãnh được mỗi năm 517.000 Úc kim, nghĩa là tăng thêm 17.000 Úc kim. Các ông bà nghị ngồi ở ghế sau, dù chỉ để “gật đầu” hay “de de” (hear, hear) thôi, mỗi người cũng sẽ lãnh hơn 200.000 Úc kim mỗi năm. Nếu so với mức lương tối thiểu của người dân Úc là 36.134 Úc kim thì lương của các vị này cao hơn 453.5 phần trăm.
Dĩ nhiên các ông bà nghị không tự ý tăng lương cho mình đâu. Đây là quyết định của một cơ quan độc lập là Tòa Ân Thưởng. Tuy nhiên điều khiến tôi thấy “vui vui” như đi xem kịch là khi được tăng lương, không có một ông bà nghị nào lên tiếng đặt vấn đề, cãi cọ hay chửi rủa nhau như thường xảy ra trong Quốc hội mỗi khi các vị thảo luận một dự luật. Tôi thấy “vui vui” nhưng  cũng thấy buồn thấm thía là bởi vì quyết định tăng lương cho các ông bà nghị lại được Tòa Ân Thưởng loan báo vào chính ngày mà Quốc hội thông qua luật bãi bỏ việc trả lương phụ trội cho những người làm việc cuối tuần. Phần lớn những người chấp nhận làm cuối tuần là những người có thu nhập thấp và dĩ nhiên làm việc cuối tuần là một hy sinh lớn đối với nhiều người. Họ đâu có kém xứng đáng để được “ân thưởng” như các ông bà nghị!
Tôi thấy buồn khi quyết định tăng lương cho các ông bà nghị lại được loan báo vào chính ngày họ quyết định tước đoạt một phần lương của những người làm cuối tuần. Tôi thấy buồn, nhưng Ký giả Stuart Marsh lại bày tỏ một cảm xúc mạnh hơn khi ông viết trên Nine.com.au: “Chúng ta hoàn toàn có đủ lý do để phẫn nộ” (it’s perfectly reasonable for us to be outraged).
Tôi hiểu được tại sao dân Úc không dành cho các chính trị gia, nhứt là các ông bà nghị ở cấp liên bang, một chỗ đứng cao trong trái tim của họ. Thời nào và ở đâu các chính trị gia cũng tuyên bố  “vì dân” cả, nhứt là dân nghèo. Nhưng con người ta dễ có khuynh hướng suy nghĩ bằng cái bụng hơn cái đầu hay trái tim. Đồng tiền liền khúc ruột. Đụng tới đồng tiền hay quyền lợi của mình thì dĩ nhiên người ta nghĩ đến mình trước tiên. Với đồng lương mỗi năm trên 200.000 Úc kim, cộng với đủ thứ phụ cấp khác, chính trị gia phải thuộc giai cấp giàu có thôi. Nếu chỉ biết lo cho người dân, nhứt là dân nghèo, thì hẳn bậc thang tín nhiệm của các chính trị gia phải ở trên tầng cao nhứt của 30 ngành nghề tại Úc Đại Lợi này.
Tại Hoa Kỳ, mức độ  tín nhiệm của các chính trị gia lại còn tệ hơn. Trong bảng xếp hạng về sự tin tưởng được dân chúng Mỹ dành cho 22 ngành nghề chính tại nước này,  năm nào viện thăm dò dư luận có thế giá nhứt tại Mỹ là Viện Gallup cũng  đều xếp các dân biểu Hạ Viện vào cuối bảng, thua cả mấy người bán xe. Các thượng nghị sĩ liên bang có đứng cao một chút nhưng chỉ hơn được một số nghề như quảng cáo và bán bảo hiểm mà thôi!
Chính trị gia nào cũng ra rả vì dân nghèo cả. Nhưng nếu ở Mỹ đang có một cuộc khủng hoảng đáng nói hơn cả thì đó chính là cuộc khủng hoảng về niềm tin đối với các chính trị gia. Xét cho cùng tôi nghĩ  đó cũng là cuộc khủng hoảng do cuộc chiến giữa giàu nghèo tạo ra.
Ông Donald Trump là một doanh gia giàu có đã trở thành tổng thống Mỹ. Cũng như mọi ứng cử viên khác, trong cuộc vận động tranh cử ông cũng hứa hẹn lo cho dân nghèo, những thành phần được ông nhắc đến trong bài diễn văn nhậm chức như “những người bị bỏ quên”. Mới đây, trước một đám đông những người ủng hộ, ông đã giải thích lý do tại sao ông chọn vào nội các của ông toàn là tỷ phú hay những người đang ở ngưỡng cửa của tỷ phú. Với kinh nghiệm làm giàu, họ sẽ làm cho nước Mỹ giàu và như vậy người dân mới giàu. Tôi hiểu một cách đơn giản như thế.
Một cách nào đó, cách chọn người vào nội các của Tổng thống Trump đã phản ảnh cái nhìn chung của Đảng Cộng Hòa. Theo một bài phân tích của Chuyên gia Samantha Smith thuộc Trung tâm Pew Research Center hôm đầu tháng Năm 2017 vừa qua, hầu hết các đảng viên Cộng hòa liên kết hầu bao của một người với sự cần cù làm việc của họ; người ta giàu có là nhờ siêng năng làm việc; còn nghèo đói là do làm biếng mà thôi!
Trong khi đó, ngoài những khác biệt về các chính sách kinh tế, các đảng viên của Đảng Dân Chủ thì lại cho rằng giàu hay nghèo là do những hoàn cảnh và những thuận lợi hay bất thuận lợi trong cuộc sống. Thành ra, với Dân Chủ, giàu nghèo là chuyện nằm ngoài tầm kiểm soát của con người.
Sự thành công trong kinh doanh hoặc thành đạt trong học vấn của người Việt tỵ nạn khắp nơi là một bằng chứng biện minh cho cái nhìn của Đảng Cộng Hòa về giàu nghèo. Chính sự cương quyết, những nỗ lực vươn lên đã mang lại thành đạt và thịnh vượng cho rất nhiều người Việt tỵ nạn.
Nhưng nói qua thì cũng phải nói lại. Nếu còn kẹt lại trong chế độ cộng sản hoặc khi đến một quê hương mới không được tạo điều kiện để làm việc và học hành thì liệu người Việt tỵ nạn có đạt được một sự thành công như thế không. Thành ra, tôi cũng hoàn toàn đồng ý với Đảng Dân Chủ về ảnh hưởng của hoàn cảnh sống đối với tình trạng giàu nghèo của con người. Không cần phải là một người  tỵ nạn, giả như Tổng thống Trump không sinh ra trong một gia đình giàu có và không thừa hưởng một gia tài kết xù do cha ông để lại, liệu ông có trở thành một doanh gia giàu có như hiện nay không.
Có khác biệt trong cái nhìn của các Đảng phái chính trị về giàu nghèo đã đành, mà chính người giàu và người nghèo có lẽ cũng không có cùng một cách suy nghĩ. Có người cho rằng người giàu  tin tưởng và lạc quan, còn người nghèo thì lúc nào cũng bi quan. Người nghèo luôn nhìn thấy vấn đề mà không đi tìm giải pháp. Người giàu thì lúc nào cũng nhắm đến sự thành công. Người giàu luôn đặt vấn đề để tìm cách giải quyết, còn người nghèo thì cứ ngồi đó mà than vãn, phê bình và kết án. Người nghèo nghĩ đến tiền bạc nhiều hơn thời giờ. Người giàu thì trái lại xem thời giờ quan trọng hơn tiền bạc. Trong khi người giàu vào thư viện để đọc sách thì người nghèo chỉ biết suốt ngày chúi mũi vào màn ảnh của những chiếc máy truyền hình lớn (x.http://www.businessinsider.com/major-differences-between-rich-and-poor-people).
Tôi không hoàn toàn đồng ý với những nhận định trên đây về cách suy nghĩ của người giàu và người nghèo. Với tôi, giàu nghèo là một vấn đề vô cùng phức tạp. Tôi ngưỡng mộ những người trở nên giàu có nhờ tài trí, quyết tâm, nỗ lực và cần cù của họ và dĩ nhiên tôi cũng lên án những người làm giàu trên xương máu của người khác hoặc bằng những cách làm ăn bất chính. Những hạng nhà giàu ấy đâu chỉ có trong những chế độ độc tài hay những nước nghèo. Họ cũng nhan nhản trong những xã hội văn minh.  
Tôi ngưỡng mộ những người lương thiện trở nên giàu có. Nhưng tôi cũng cảm thông với người nghèo và khốn khổ. Ngoài những người tự nguyện chọn cuộc sống nghèo như các tu sĩ hay các nhà hiền triết, chẳng có ai muốn sống nghèo hay khốn khổ cả. Tôi phục sát đất cựu Tổng thống Jose Mujica của xứ Uruguay: ông đã trao tặng 90 phần trăm tiền lương của ông cho các công cuộc từ thiện; ông không bao giờ khoác vào người một bộ “com lê” hay đeo chiếc cà vạt nào cả; còn đi lại thì ông chỉ sử dụng chiếc xe con cóc cà tàng Volkwagen đời 1987; từ tiền lương mỗi năm ông chỉ giữ lại cho mình đúng 12.000 Mỹ kim, vừa đủ để trả các hóa đơn.
Nghe nói Tổng thống Trump cho biết sẽ không nhận lương tổng thống của ông, mà trao tặng hoàn toàn cho Tòa Bạch Ốc. Đúng hay không tôi không biết, nhưng tiền lương 527.000 Mỹ kim của một tổng thống Mỹ đối với tỷ phú Trump có lẽ cũng chỉ là một thứ tiền túi không đáng kể.
Trong một nước nhỏ và nghèo như Uruguay, chọn sống nghèo như Tổng thống  Jose Mujica thật là một thái độ đáng khâm phục. Nhưng dù có chọn sống nghèo, cuộc sống của nhà lãnh đạo này   vẫn chưa phải là bần cùng. Ông chỉ nghèo ở mức vẫn còn đủ để sống xứng với phẩm giá của con người. Trong khi đó tại những nước nghèo, có biết bao nhiêu người phải lâm cảnh nghèo đói hay màn trời chiếu đất. Và ngay trong những nước giàu có như Úc Đại Lợi chẳng hạn cũng có biết bao nhiêu người nghèo hay vô gia cư không có đủ điều kiện để sống xứng với phẩm giá con người. Dù có nghèo đói vì làm biếng hay làm gì đi nữa như tự hủy hoại cuộc sống bằng những con đường sa đọa khác nhau, chẳng có ai thực sự muốn rơi vào cảnh khốn cùng cả.
Với tôi, sự hiện diện của những người nghèo và nhứt là những người nghèo phải rơi vào con đường nghiện ngập luôn là một  trắc nghiệm về sự cảm thông của tôi. Có những người không còn đủ sức cầm nổi một con cá thì đừng trao cho họ một chiếc cần câu để bảo họ tự câu cá lấy mà ăn. Đứng trước một người nghèo hay khốn khổ, là một tín hữu Kitô, tôi không thể không nghĩ tới bài dụ ngôn về người Samaria nhân lành được ghi lại trong Sách Tin Mừng Luca 10. 29-37. Đây chính là cốt lõi của Kitô Giáo.  Với tôi đây cũng là một trong những  câu chuyện đẹp nhứt trong kho tàng minh triết của loài người. Gặp người hoạn nạn, người Samaria không đặt bất cứ một câu hỏi nào: tại sao anh phải ra nông nỗi như thế này? Tại sao anh đi vào một con đường nguy hiểm như thế này?...Người Samaria chỉ thinh lặng. Đó là sự thinh lặng của cảm thông và sự cảm thông đã thúc đẩy anh ra tay giúp đỡ người bị hoạn nạn.
Từ câu chuyện này, mỗi khi đứng trước một người nghèo hay một kẻ khốn khổ vì nghiện ngập, tôi nghe như có tiếng tra vấn: xin đừng hỏi tại sao tôi nghèo mà hãy cảm thông với hoàn cảnh của tôi!







Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét