Thứ Tư, 12 tháng 7, 2017

Mùa Xuân và Cách mạng

Chu Thập
22/01/14
Tôi không hiểu tại sao những cuộc cách mạng thường được lịch sử nhắc đến lại diễn ra trong mùa Xuân. Cuộc cách mạng mùa Xuân mà trước năm 1975 tôi nghe nói đến nhiều nhất là cuộc cách mạng mùa Xuân Tiệp Khắc năm 1968. Thời bấy giờ, qua những thước phim được bộ Thông tin của Việt Nam Cộng Hòa cho phổ biến, tôi thấy hình ảnh tàn bạo của những chiếc xe tăng Liên Xô cày xéo trên đất nước Tiệp Khắc. Sau này khi tìm hiểu lịch sử, tôi mới biết rằng sau khi được bầu làm Tổng bí thư Đảng Cộng Sản Tiệp Khắc, ông Alexander Dubcek đã cho tiến hành một loạt cải tổ nhằm bãi bỏ nền kinh tế tập trung, dân chủ hóa đất nước và tháo g những hạn chế về các quyền tự do căn bản của người dân như tự do  báo chí, tự do phát biểu và tự do đi lại. Nhưng công cuộc cải cách của ông Dubcek chỉ diễn ra từ đầu tháng Giêng cho đến tháng 8 năm 1968 là năm mà Liên xô và các nước cộng sản thành viên trong Khối Warsaw đã đưa quân sang xâm lăng Tiệp Khắc và chận đứng mọi cuộc cải tổ. Bức màn sắt đã hoàn toàn chụp phủ lên toàn lãnh thổ Tiệp Khắc mãi cho đến năm 1989, là năm mà người dân nước này, một lần nữa thực hiện điều mà lịch sử sẽ mãi mãi ghi đậm như “Cuộc cách mạng êm như nhung”, nghĩa là lật đổ chế độ cộng sản mà không tốn một viên đạn và một giọt máu.
Thật ra, cuộc cách mạng lật đổ chế độ cộng sản tại Tiệp Khắc và hiệu ứng “Domino” của nó tại các nước cộng sản Đông Âu khác không phải là “cuộc cách mạng êm nhu nhung” đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Cũng xứng đáng là một “cuộc cách mạng êm nhu nhung” là cuộc cách mạng lật đổ nhà độc tài Ferdinand Marcos tại Phi Luật Tân năm 1986. Diễn ra trong tháng 2 cho nên cuộc cách mạng thường được gọi là “Sức mạnh của quần chúng” (people’s power) cũng xứng danh là một cuộc “cách mạng Mùa Xuân”. Như tôi đã tận mắt chứng kiến, dù không có trong tay một tấc sắt, hơn một triệu người dân Phi đã xuống đường và đã đẩy lui được một quân đội hùng mạnh và buộc nhà độc tài phải ra đi.
Tôi tin chắc rằng chính cuộc cách mạng “Sức mạnh quần chúng” tại Phi Luật Tân năm 1986 và cuộc cách mạng “êm như nhung” tại Tiệp Khắc năm 1989 đã trở thành nguồn cảm hứng cho phong trào “Mùa Xuân Á Rập” mà cuộc “Cách mạng Hoa Lài” tại Tunisia, Bắc Phi từ giữa tháng 12 năm 2010 đến giữa tháng Giêng năm 2011 là một khởi đầu. Làn gió Xuân đã nhẹ nhàng thổi qua Ai Cập để buộc tổng thống Hosni Mubarak phải từ chức sau đúng 30 năm cai trị với bàn tay sắt. Cũng trong năm đó, Mùa Xuân Á Rập lại được trải dài đến Lybia, nơi mà người ta tưởng sẽ không có bất cứ một làn gió nào có thể làm lung lay ngai vàng của đại tá Muamar Gadhafi, người được thế giới mệnh danh là “con chó điên của Trung Đông”. Vậy mà cuối cùng, cái chết thảm thiết của ông đã cho thấy không một quyền lực nào có thể đứng vững trước sức mạnh của người dân.
Nhưng Mùa Xuân không chỉ dừng lại ở Trung Đông. Tại Miến Điện, thế giới cũng nói đến một Mùa Xuân khi đầu năm 2011, tướng Thein Sein được bầu vào chức vụ tổng thống nước này. Vị tướng này đã từ bỏ đường lối độc tài quân phiệt, thoát khỏi vòng kiềm tỏa của bá quyền Trung Quốc, công nhận Đảng Đối Lập và cho tổ chức cuộc bầu cử bổ sung vào mùa Xuân năm 2012, phóng thích hàng loạt tù nhân chính trị và cho phép tự do báo chí. Cuộc “cách mạng”  mà tổng thống Thein Sein đang thực hiện, có lẽ người dân Miến Điện chẳng bao giờ dám mơ tưởng. Thật ra, phép lạ này chỉ có thể diễn ra là nhờ một nhân vật vĩ đại khác mà thế giới đều nhìn vào như một biểu tượng của quá trình dân chủ hóa tại Miến Điện. Bậc vĩ nhân đó là bà Aung San Suu Kyi. Năm 1990, mặc dù chiến thắng áp đảo với 82 phần trăm số phiếu trong cuộc bầu cử , bà đã bị nhóm quân phiệt tước quyền và giam lỏng trong hàng bao nhiêu năm trời. Vậy mà đầu năm 2011, khi được trả tự do, bà đã chấp nhận quyền cai trị của tổng thống Thein Sein, vận động thế giới xóa bỏ cấm vận với chính quyền đương nhiệm để xây dựng dân chủ và hòa giải cho dân tộc.
Cùng với bà Aung San Suu Kyi, thế giới hẳn cũng sẽ nhớ mãi hình ảnh của cố tổng thống Nelson Mandela của Nam Phi, người đã ra đi vào ngày 5 tháng 12 năm vừa qua. Vị tổng thống da đen đầu tiên của Nam Phi này đã thực hiện một cuộc cách mạng vĩ đại, đó là cuộc cách mạng trong chính bản thân ông. Từ một con người có chủ trương bạo động, ông đã biến thành sứ giả của hòa bình, tha thứ và hòa giải. Trước khi Nam Phi được giải thoát khỏi ách nô lệ của chế độ phân biệt chủng tộc của người da trắng, Nelson Mandela đã được giải thoát khỏi những xiềng xích của nô lệ trong chính bản thân ông là sự ích kỷ và lòng hận thù. Chính sự thật đã giải thoát ông trước khi ông thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Nam Phi.
Trong những ngày đầu Xuân, nghĩ về Mùa Xuân Tiệp Khắc, cuộc cách mạng “êm như nhung” tại nước này và kế đó là Mùa Xuân Á Rập, Mùa Xuân Miến Điện và hình ảnh của những nhà cách mạng hào hùng đã thực hiện cách mạng ngay từ chính bản thân mình, tôi cũng cầu mong cho một Mùa Xuân theo ý nghĩa ấy được diễn ra trên quê hương của mình.
Trong những ngày đầu năm Dương lịch vừa qua, có nhiều biến chuyển liên quan đến tình hình trong nước khiến tôi mong mi một Mùa Xuân như thế. Tôi chú ý đến ba cuộc biểu tình chống Trung Quốc nhân dịp kỷ niệm đúng 40 năm ngày 74 chiến sĩ của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa quyết tử để bảo vệ Hoàng Sa ngày 19 tháng Giêng năm 1974. Trước hết là cuộc biểu tình của một số người Việt Nam đang sinh sống tại Nhựt Bổn. Nhìn trong bức hình với những biểu ngữ có nội dung chống Trung Quốc xâm chiếm Biển Đông, tôi thấy phất phới nhiều lá cờ đỏ sao vàng. Nhìn sang cuộc biểu tình cùng ngày tại Hamburg, Cộng Hòa Liên Bang Đức, tôi cũng thấy những lá cờ máu ấy, chen lẫn với vài lá cờ vàng ba sọc đỏ.
Nhìn những lá cờ máu ấy, tôi không thể không cảm thấy xót xa. Nếu những người Việt Nam giương cao lá cờ máu ấy biết rằng đó là lá cờ của Đảng Cộng Sản Việt Nam, những người đã công khai tuyên bố “ta đánh Mỹ là đánh cho Nga cho Tàu” thì hẳn họ sẽ nhận ra mấu chốt của vấn đề. Không có cuộc chiến “đánh thuê cho Nga Tàu” và không có chuyện thủ tướng Phạm Văn Đồng ký công hàm nhìn nhận chủ quyền của Trung Cộng trên Trường Sa, Hoàng Sa hồi năm 1958 thì làm gì có chuyện năm 1974, Trung Cộng đem quân xuống xâm chiếm Hoàng Sa và làm gì có chuyện ngày nay nước cộng sản bá quyền này muốn thâu tóm cả Biển Đông. Nói cho cùng, không có lá cờ máu ấy, không có những kẻ rước voi về dày mả tổ, không có những con người đặt sự lệ thuộc và tồn tại của Đảng và quyền lợi cá nhân lên trên tổ quốc, thì làm gì có chuyện Trung Cộng ngang nhiên lấn chiếm lãnh hải đất nước như thế. Thành ra, có lẽ chẳng phải ngạc nhiên khi người dân trong nước lên tiếng phản đối việc Trung Cộng xâm lăng bờ cõi, họ đã bị chính những người cộng sản Việt Nam đàn áp một cách dã man.
Trái với hình ảnh của lá cờ máu được giương cao trong cuộc biểu tình tại Nhựt Bổn và Đức, trong cuộc tưởng niệm 74 chiến sĩ bỏ mình trong trận hải chiến tại Hoàng Sa được tổ chức tại vườn hoa Lý Thái Tổ ở  Hà Nội như được giáo sư Nguyễn Huệ Chi ghi lại (x.Đàn Chim Việt online), tôi cố tình tìm kiếm nhưng không hề thấy có bất cứ một lá cờ máu nào. Có chăng là những bó hoa dành cho 74 tử sĩ đã hy sinh trong trận hải chiến chống lại quân xâm lăng. Không những không trương lá cờ máu, những người tham gia cuộc tưởng niệm còn trương một biểu ngữ đy ý nghĩa: “không được bán Hoàng Sa”.Tôi nhận ra được ý nghĩa của sự vắng bóng của lá cờ máu và thông điệp mà những người tham gia cuộc tưởng niệm muốn nhắn gởi với người dân trong nước: Đảng Cộng Sản Việt Nam mà lá cờ máu là linh hồn chính là thủ phạm bán nước. Những người tham gia cuộc tưởng niệm tại Hà Nội đã nhận ra và muốn cho mọi người thấy được cốt lõi của vấn đề: họ đã nhận ra được bộ mặt thật của Đảng Cộng Sản Việt Nam; Đảng Cộng Sản Việt Nam chính là những kẻ bán nước; giải thể Đảng này là một bước tiên quyết trong việc đòi lại Hoàng Sa. Nói cho cùng, sự thật nền tảng mà thế giới tự do ngày nay, nhứt là Nghị Viện Âu Châu, muốn phổ biến cho toàn thế giới là: chủ nghĩa cộng sản hay đúng hơn các chế độ cộng sản là thảm họa tột cùng của nhân loại. Và như cố tổng thống Vaclav Havel đã kêu gọi trong khảo luận chính trị có tựa đề “The Power of the Powerless” (sức mạnh của những người không có quyền lực) được lén lút phổ biến tại Tiệp Khắc năm 1978 và nay được dịch sang Việt Ngữ, chỉ có một thứ vũ khí có thể đánh bại được chủ nghĩa và chế độ đồi bại này là “Sống cho sự thật”, bởi lẽ chế độ này chỉ có thể tồn tại nhờ dối trá được xây dựng trên khủng bố. Một khi người dân dám đứng thẳng lên để “sống cho sự thật”, nghĩa là không còn sợ hãi nữa thì quyền lực thống trị của chế độ cộng sản phải sụp đổ tức khắc. Đó là điều đã từng xảy ra trong cuộc cách mạng “êm như nhung” năm 1989.
Cuộc cách mạng Mùa Xuân như đã từng diễn ra đó đây trên thế giới và cũng được tôi mong nhìn thấy trên quê hương trong những ngày này hẳn chỉ có thể là một cuộc cách mạng của sự thật. Và dĩ nhiên đó cũng là cuộc cách mạng Mùa Xuân đích thực mà tôi muốn được thấy thực hiện từng ngày  trong chính bản thân tôi.
Với quyết tâm đổi mới trong Mùa Xuân, tôi đọc lại bài khảo luận có tựa đề “Live Not By Lies” (Đừng sống bằng dối trá) của cố văn hào Nga Alexandr Solzhenitsyn (1918-2008). Bài viết này đã được lén lút phổ biến trong giới trí thức tại Moscow năm 1974. Ông đã bị bắt giữ và ngày hôm sau bị trục xuất qua Tây Đức. Nội dung của bài viết là một lời kêu gọi hãy sống can đảm và nâng đỡ tất cả những ai trân quý sự thật. Tôi đặc biệt ghi nhớ và tâm niệm đoạn sau đây: “Chìa khóa đơn giản nhứt và dễ dàng nhứt để đạt được sự giải thoát cá nhân là: không tham dự vào dối trá. Dối trá có bao trùm lên mọi sự đi nữa cũng không nhờ sự tiếp tay của tôi. Thái độ của tôi sẽ tạo ra một rạn nứt trong cái vòng vay tưởng tượng do sự bất động của tôi tạo ra. Đây là điều dễ dàng nhứt mà chúng ta có thể làm, nhưng lại có sức tàn phá nhứt đối với dối trá. Bởi lẽ khi con người khước từ dối trá, thì sự hiện hữu của nó sẽ bị cắt đứt. Như một thứ ung nhọt, dối trá chỉ có thể hiện hữu trong một sinh vật”.
Tôi đang sống trong một xã hội tự do. Tôi đang có tất cả những quyền tự do căn bản nhứt của con người. Nhưng tôi sẽ là một kẻ ngu ngốc và khờ dại để bảo rằng xung quanh tôi không hề có dối trá. Ở đất nước này, dối trá không được định chế hóa, nhưng tôi biết rằng lúc nào tôi cũng bị bao vây bởi dối trá và cạm bẫy và tôi cũng tin tưởng rằng bao lâu tôi không tham gia vào dối trá và lừa mị dưới bất cứ hình thức nào, tôi mới thực sự là một con người tự do.
Một con én không làm nên mùa Xuân, nhưng nó báo hiệu mùa Xuân đến. Khi một người từ chối tiếp tay và sống với dối trá, họ quay về với sự thật. Cuộc cách mạng nội tâm quay về với sự thật của một cá nhân không làm thay đổi tình trạng đáng buồn của đất nước nhưng chắc chắn nó báo hiệu làn gió Xuân của cách mạng đang thổi đến.   








Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét