Chu Thập
22/01/14
Tôi không hiểu tại sao những cuộc cách mạng thường được lịch sử nhắc đến lại
diễn ra trong mùa Xuân. Cuộc cách mạng mùa Xuân mà trước năm 1975 tôi nghe nói
đến nhiều nhất là cuộc cách mạng mùa Xuân Tiệp Khắc năm 1968. Thời bấy giờ, qua
những thước phim được bộ Thông tin của Việt Nam Cộng Hòa cho phổ biến, tôi thấy
hình ảnh tàn bạo của những chiếc xe tăng Liên Xô cày xéo trên đất nước Tiệp Khắc.
Sau này khi tìm hiểu lịch sử, tôi mới biết rằng sau khi
được bầu làm Tổng bí thư Đảng Cộng Sản Tiệp Khắc, ông Alexander Dubcek đã cho tiến hành một
loạt cải tổ nhằm bãi bỏ nền kinh tế tập trung, dân chủ hóa đất nước và tháo gỡ những hạn chế về các quyền tự do căn bản của người dân
như tự do báo chí, tự do phát biểu và tự
do đi lại. Nhưng công cuộc cải cách của ông Dubcek chỉ diễn ra từ đầu tháng Giêng cho đến tháng 8 năm 1968 là năm mà Liên xô và các nước
cộng sản thành viên trong Khối Warsaw đã đưa quân sang xâm lăng Tiệp Khắc và chận
đứng mọi cuộc cải tổ. Bức màn sắt đã hoàn toàn chụp phủ lên toàn lãnh thổ Tiệp
Khắc mãi cho đến năm 1989, là năm mà người dân nước này, một lần nữa thực hiện
điều mà lịch sử sẽ mãi mãi ghi đậm như “Cuộc cách mạng êm như nhung”, nghĩa là
lật đổ chế độ cộng sản mà không tốn một viên đạn và một giọt máu.
Thật ra, cuộc cách mạng lật đổ chế độ cộng sản tại Tiệp Khắc và hiệu ứng
“Domino” của nó tại các nước cộng sản Đông Âu khác không phải là “cuộc cách mạng
êm nhu nhung” đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Cũng xứng đáng là một “cuộc
cách mạng êm nhu nhung” là cuộc cách mạng lật đổ nhà độc tài Ferdinand Marcos tại
Phi Luật Tân năm 1986. Diễn ra trong tháng 2 cho nên cuộc cách mạng thường được
gọi là “Sức mạnh của quần chúng” (people’s power) cũng xứng danh là một cuộc “cách mạng
Mùa Xuân”. Như tôi đã tận mắt chứng kiến, dù không có trong tay một tấc sắt,
hơn một triệu người dân Phi đã xuống đường và đã đẩy lui được một quân đội hùng
mạnh và buộc nhà độc tài phải ra đi.
Tôi tin chắc rằng chính cuộc cách mạng “Sức mạnh quần chúng” tại Phi Luật
Tân năm 1986 và cuộc cách mạng “êm như nhung” tại Tiệp Khắc năm 1989 đã trở
thành nguồn cảm hứng cho phong trào “Mùa Xuân Á Rập” mà cuộc “Cách mạng Hoa
Lài” tại Tunisia, Bắc Phi từ giữa tháng 12 năm 2010 đến giữa tháng Giêng năm 2011 là một khởi đầu. Làn gió Xuân đã nhẹ nhàng
thổi qua Ai Cập để buộc tổng thống Hosni Mubarak phải từ chức sau đúng 30 năm
cai trị với bàn tay sắt. Cũng trong năm đó, Mùa Xuân Á Rập lại được trải dài đến
Lybia, nơi mà người ta tưởng sẽ không có bất cứ một làn gió nào có thể làm lung
lay ngai vàng của đại tá Muamar Gadhafi, người được thế giới mệnh danh là “con
chó điên của Trung Đông”. Vậy mà cuối cùng, cái chết thảm thiết của ông đã cho
thấy không một quyền lực nào có thể đứng vững trước sức mạnh của người dân.
Nhưng Mùa Xuân không chỉ dừng lại ở Trung Đông. Tại Miến Điện, thế giới
cũng nói đến một Mùa Xuân khi đầu năm 2011, tướng Thein Sein được bầu vào chức
vụ tổng thống nước này. Vị tướng này đã từ bỏ đường
lối độc tài quân phiệt, thoát khỏi vòng kiềm tỏa của bá quyền Trung Quốc, công nhận Đảng Đối Lập và
cho tổ chức cuộc bầu cử bổ sung vào mùa Xuân năm 2012, phóng thích hàng loạt tù
nhân chính trị và cho phép tự do báo chí. Cuộc “cách mạng” mà tổng thống Thein Sein đang thực hiện, có lẽ
người dân Miến Điện chẳng bao giờ dám mơ tưởng. Thật ra, phép lạ này chỉ có thể
diễn ra là nhờ một nhân vật vĩ đại khác mà thế giới đều nhìn vào như một biểu
tượng của quá trình dân chủ hóa tại Miến Điện. Bậc vĩ nhân đó là bà Aung San
Suu Kyi. Năm 1990, mặc dù chiến thắng áp đảo với 82 phần trăm số phiếu trong cuộc
bầu cử , bà đã bị nhóm quân phiệt tước quyền và giam lỏng trong hàng bao nhiêu
năm trời. Vậy mà đầu năm 2011, khi được trả tự do, bà đã chấp nhận quyền cai trị
của tổng thống Thein Sein, vận động thế giới xóa bỏ cấm vận với chính quyền
đương nhiệm để xây dựng dân chủ và hòa giải cho dân tộc.
Cùng với bà Aung San Suu Kyi, thế giới hẳn cũng sẽ nhớ mãi hình ảnh của cố
tổng thống Nelson Mandela của Nam Phi, người đã ra đi vào ngày 5 tháng 12 năm vừa
qua. Vị tổng thống da đen đầu tiên của Nam Phi này đã thực hiện một cuộc cách mạng
vĩ đại, đó là cuộc cách mạng trong chính bản thân ông. Từ một con người có chủ
trương bạo động, ông đã biến thành sứ giả của hòa bình, tha thứ và hòa giải.
Trước khi Nam Phi được giải thoát khỏi ách nô lệ của chế độ phân biệt chủng tộc
của người da trắng, Nelson Mandela đã được giải thoát khỏi những xiềng xích của
nô lệ trong chính bản thân ông là sự ích kỷ và lòng hận thù. Chính sự thật đã
giải thoát ông trước khi ông thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Nam
Phi.
Trong những ngày đầu Xuân, nghĩ về Mùa Xuân Tiệp Khắc, cuộc cách mạng “êm
như nhung” tại nước này và kế đó là Mùa Xuân Á Rập, Mùa Xuân Miến Điện và hình ảnh
của những nhà cách mạng hào hùng đã thực hiện cách mạng ngay từ chính bản thân
mình, tôi cũng cầu mong cho một Mùa Xuân theo ý nghĩa ấy được diễn ra trên quê
hương của mình.
Trong những ngày đầu năm Dương lịch vừa qua, có nhiều biến chuyển liên quan đến tình
hình trong nước khiến tôi mong mỏi một Mùa Xuân như thế. Tôi chú ý đến ba cuộc biểu tình
chống Trung Quốc nhân dịp kỷ niệm đúng 40 năm ngày 74 chiến sĩ của Quân lực Việt
Nam Cộng Hòa quyết tử để bảo vệ Hoàng Sa ngày 19 tháng Giêng năm 1974. Trước hết là cuộc biểu tình của một số người
Việt Nam đang sinh sống tại Nhựt Bổn. Nhìn trong bức hình với những biểu ngữ có
nội dung chống Trung Quốc xâm chiếm Biển Đông, tôi thấy phất phới nhiều lá cờ đỏ
sao vàng. Nhìn sang cuộc biểu tình cùng ngày tại Hamburg, Cộng Hòa Liên Bang Đức,
tôi cũng thấy những lá cờ máu ấy, chen lẫn với vài lá cờ vàng ba sọc đỏ.
Nhìn những lá cờ máu ấy, tôi không thể không cảm thấy xót xa. Nếu những người
Việt Nam giương cao lá cờ máu ấy biết rằng đó là lá cờ của Đảng Cộng Sản Việt
Nam, những người đã công khai tuyên bố “ta đánh Mỹ là đánh cho Nga cho Tàu” thì
hẳn họ sẽ nhận ra mấu chốt của vấn đề. Không có cuộc chiến “đánh thuê cho Nga
Tàu” và không có chuyện thủ tướng Phạm Văn Đồng ký công hàm nhìn nhận chủ quyền
của Trung Cộng trên Trường Sa, Hoàng Sa hồi năm 1958 thì làm gì có chuyện năm
1974, Trung Cộng đem quân xuống xâm chiếm Hoàng Sa và làm gì có chuyện ngày nay
nước cộng sản bá quyền này muốn thâu tóm cả Biển Đông. Nói cho cùng, không có
lá cờ máu ấy, không có những kẻ rước voi về dày mả tổ, không có những con người
đặt sự lệ thuộc và tồn tại của Đảng và quyền lợi cá nhân lên trên tổ quốc, thì
làm gì có chuyện Trung Cộng ngang nhiên lấn chiếm lãnh hải đất nước như thế.
Thành ra, có lẽ chẳng phải ngạc nhiên khi người dân trong nước lên tiếng phản đối
việc Trung Cộng xâm lăng bờ cõi, họ đã bị chính những người cộng sản Việt Nam
đàn áp một cách dã man.
Trái với hình ảnh của lá cờ máu được giương cao trong cuộc biểu tình tại Nhựt
Bổn và Đức, trong cuộc tưởng niệm 74 chiến sĩ bỏ mình trong trận hải chiến tại
Hoàng Sa được tổ chức tại vườn hoa Lý Thái Tổ ở Hà Nội như
được giáo sư Nguyễn Huệ Chi ghi lại (x.Đàn Chim Việt online), tôi cố tình tìm
kiếm nhưng không hề thấy có bất cứ một lá cờ máu nào. Có chăng là những bó hoa
dành cho 74 tử sĩ đã hy sinh trong trận hải chiến chống lại quân xâm lăng. Không
những không trương lá cờ máu, những người tham gia cuộc tưởng niệm còn trương một
biểu ngữ đầy ý nghĩa: “không được bán Hoàng Sa”.Tôi nhận ra được ý nghĩa của sự vắng
bóng của lá cờ máu và thông điệp mà những người tham gia cuộc tưởng niệm muốn
nhắn gởi với người dân trong nước: Đảng Cộng Sản Việt Nam mà lá cờ máu là linh
hồn chính là thủ phạm bán nước. Những người tham gia cuộc tưởng niệm tại Hà Nội
đã nhận ra và muốn cho mọi người thấy được cốt lõi của vấn đề: họ đã nhận ra được bộ mặt thật của Đảng Cộng
Sản Việt Nam; Đảng Cộng Sản Việt Nam chính là những kẻ bán nước; giải thể Đảng
này là một bước tiên quyết trong việc đòi lại Hoàng Sa. Nói cho cùng, sự thật nền
tảng mà thế giới tự do ngày nay, nhứt là Nghị Viện Âu Châu, muốn phổ biến cho
toàn thế giới là: chủ nghĩa cộng sản hay đúng hơn các chế độ cộng sản là thảm họa
tột cùng của nhân loại. Và như cố tổng thống Vaclav Havel đã kêu gọi trong khảo
luận chính trị có tựa đề “The Power of the Powerless” (sức mạnh của những người
không có quyền lực) được lén lút phổ biến tại Tiệp Khắc năm 1978 và nay được dịch
sang Việt Ngữ, chỉ có một thứ vũ khí có thể đánh bại được chủ nghĩa và chế độ đồi
bại này là “Sống cho sự thật”, bởi lẽ chế độ này chỉ có thể tồn tại nhờ dối trá
được xây dựng trên khủng bố. Một khi người dân dám đứng thẳng lên để “sống cho
sự thật”, nghĩa là không còn sợ hãi nữa thì quyền lực thống trị của chế độ cộng
sản phải sụp đổ tức khắc. Đó là điều đã từng xảy ra trong cuộc cách mạng “êm
như nhung” năm 1989.
Cuộc cách mạng Mùa Xuân như đã từng diễn ra đó đây trên thế giới và cũng được
tôi mong nhìn thấy trên quê hương trong những ngày này hẳn chỉ có thể là một cuộc
cách mạng của sự thật. Và dĩ nhiên đó cũng là cuộc cách mạng Mùa Xuân đích thực
mà tôi muốn được thấy thực hiện từng ngày trong chính bản thân tôi.
Với quyết tâm đổi mới trong Mùa Xuân, tôi đọc lại bài khảo luận có tựa đề
“Live Not By Lies” (Đừng sống bằng dối trá) của cố văn hào Nga Alexandr
Solzhenitsyn (1918-2008). Bài viết này đã được lén lút phổ biến trong giới trí thức tại Moscow
năm 1974. Ông đã bị bắt giữ và ngày hôm sau bị trục xuất qua Tây Đức. Nội dung
của bài viết là một lời kêu gọi hãy sống can đảm và nâng đỡ tất cả những ai
trân quý sự thật. Tôi đặc biệt ghi nhớ và tâm niệm đoạn sau đây: “Chìa khóa đơn giản nhứt và dễ dàng nhứt để đạt được sự giải thoát cá
nhân là: không tham dự vào dối trá. Dối trá có bao trùm lên mọi sự đi nữa cũng
không nhờ sự tiếp tay của tôi. Thái độ của tôi sẽ tạo ra một rạn nứt trong cái
vòng vay tưởng tượng do sự bất động của tôi tạo ra. Đây là điều dễ dàng nhứt mà
chúng ta có thể làm, nhưng lại có sức tàn phá nhứt đối với dối trá. Bởi lẽ khi
con người khước từ dối trá, thì sự hiện hữu của nó sẽ bị cắt đứt. Như một thứ
ung nhọt, dối trá chỉ có thể hiện hữu trong một sinh vật”.
Tôi đang sống trong một xã hội tự do. Tôi đang có tất cả những quyền tự do
căn bản nhứt của con người. Nhưng tôi sẽ là một kẻ ngu ngốc và khờ dại để bảo rằng
xung quanh tôi không hề có dối trá. Ở đất nước này, dối trá không được định
chế hóa, nhưng tôi biết rằng lúc nào tôi cũng bị bao vây bởi dối trá và cạm bẫy và tôi cũng tin tưởng rằng bao
lâu tôi không tham gia vào dối trá và lừa mị dưới bất cứ hình thức nào, tôi mới
thực sự là một con người tự do.
Một con én không làm nên mùa Xuân, nhưng nó báo hiệu mùa Xuân đến. Khi một
người từ chối tiếp tay và sống với dối trá, họ quay về với sự thật. Cuộc cách mạng
nội tâm quay về với sự thật của một cá nhân không làm thay đổi tình trạng đáng
buồn của đất nước nhưng chắc chắn nó báo hiệu làn gió Xuân của cách mạng đang thổi đến.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét