Thứ Sáu, 14 tháng 7, 2017

Quà mùa Đông


Chu Thập
07/07/17
Phần lớn các tiểu bang Úc Đại Lợi thuộc vùng Ôn đới. Mùa đông cũng khá lạnh. Nhưng so với Bắc Mỹ hay Âu Châu, cái lạnh của Úc chẳng thấm vào đâu. Từ nhiều năm nay, ở vào cao điểm mùa đông ở Úc, tôi đã tập được thói quen ngủ mà không cần mở sưởi. Không những chịu đựng được mà còn thích thú nữa là khác. Nhưng, kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng, nhiều lúc nghĩ đến những người vô gia cư, không có nệm ấm chăn êm và một mái nhà như tôi, không biết họ có được giấc ngủ khoan khoái như tôi mỗi khi mùa đông trở về không.
Thỉnh thoảng vào mùa hè tôi cũng tập làm “homeless”. Chất cần câu lên xe, chuẩn bị lương thực và nhiều thứ cần thiết khác cho một chuyến đi vài ngày, tôi lái đến bất cứ nơi nào có nước và dừng lại quăng câu. Tối đến nằm trên nệm xe trong tư thế không thoải mái chút nào, nhưng vẫn ngủ được. Tháng Bảy, vào những đêm lạnh cóng, tôi cũng vẫn mặc đồ lội nước để rình mấy con cá hanh. Gặp lúc cá cắn câu, tay chân hoạt động liên tục, tôi cũng quên hẳn cái lạnh của mùa đông. Thật ra, cũng có lúc cảm nhận được cái lạnh của mùa đông, nhưng tôi vẫn chưa thực sự “cảm” được cái lạnh mà những người vô gia cư phải trải qua. Bên cạnh cái lạnh thấu xương khi phải ngủ lăn lóc trên vỉa hè, còn có cái lạnh khác chạy xuyên qua trái tim. Đó là cái lạnh của cô đơn, của tâm trạng bị xã hội đẩy ra bên lề và bao nhiêu vết thương không bao giờ lành khác. Quả thật, tôi chưa thực sự “cảm” được cái lạnh như thế của những người vô gia cư.
Có phải vì chưa “cảm” được một cái lạnh như thế chăng mà mới đây một số người giàu có ở Úc đã tình nguyện tham gia một chương trình truyền hình thực tế của Đài SBS có tựa đề là “Filthy Rich and Homeless” (người giàu “đi bụi” và người vô gia cư). Một trong những người giàu có này là Tim Guest. Tim Guest là một nhà đầu tư thành công tương đối trẻ. Ông được biết đến qua những hướng dẫn về tài chính và giáo dục cũng như những đóng góp cho  công tác từ thiện.
Là một trong 5 người giàu có tham gia chương trình “Filthy Rich and Homeless”, ông  Guest đã quyết định từ bỏ cuộc sống xa hoa của mình để cảm nghiệm được thế nào là sống như một người vô gia cư thực sự, nghĩa là không có một chỗ ở thường xuyên đáng được gọi là “mái nhà”.
Bước vào chương trình, người đàn ông giàu có này thú nhận rằng mình là một trong rất nhiều người Úc không hề quan tâm  đến sự hiện diện của những người vô gia cư xung quanh mình. Sau chuyến đi “thực tế”, Guest đã bỏ ra 10 phần trăm lợi nhuận của công ty do ông làm chủ để trợ giúp các công tác từ thiện dành cho người vô gia cư.
Trong chuyến đi “thực tế”, Guest đã ngủ trên một vỉa hè và tận mắt chứng kiến những vụ cãi cọ đánh nhau vì nghiện ngập tại một trung tâm tạm cư dành cho người vô gia cư.
Sau vài đêm lăn lộn trên đường phố, nhà triệu phú trẻ này đã thấm được cái lạnh giữa mùa đông mà những kẻ không nhà phải nếm trải quanh năm ngày tháng. Nhưng đó không phải là khám phá chính trong chuyến đi “thực tế” của ông. Trọng tâm của những khám phá chính là những câu chuyện xé lòng của những người vô gia cư. Guest kể lại rằng trong những ngày tham gia chương trình “Filthy Rich and Homeless”, ông đã kết thân với một người đã đi vào cuộc sống “đường phố” kể từ năm lên 12 tuổi. Người đàn ông này cho biết lúc còn nhỏ đã từng bị lạm dụng tình dục; cha ông và một người anh của ông đã tự tử khi ông còn học tiểu học.
Kể lại câu chuyện này, Guest đã không cầm được nước mắt. Trước khi tham gia chương trình, ông nói rằng ngày nào ông cũng chạm mặt với những người vô gia cư ở trung tâm thành phố Perth, Tây Úc. Nhưng cũng như nhiều người khác, ông chọn thái độ ngoảnh mặt làm ngơ. Sau khi tham gia chương trình, ông đã có một cái nhìn hoàn toàn khác về họ. Ông chia sẻ: “Bây giờ, tôi đã biết hỏi họ ngủ ở đâu, họ có được an toàn không, lần cuối cùng họ được tắm gội ở đâu. Dù chỉ là 5 hay 10 phút, ngồi xuống với họ và nói chuyện với họ, điều đó làm cho họ cảm thấy mình cũng là những “con người” (x.http://www.smh.com.au/entertainment/tv-and-radio/filthy-rich-and-homeless-reduced-contestant-to-tears-over-and-over-again).
Quả đúng như người Tây phương thường nói, có xỏ chân vào giày của người khác mới hiểu được họ.
Bày tỏ sự cảm thông, gạt bỏ thành kiến sai lầm về một người hay một nhóm người, kinh nghiệm bản thân cho tôi thấy đó không phải là điều dễ làm. Nếu không có một chấn động mạnh hay không luyện tập để biết suy nghĩ và làm chủ các cảm xúc, cảm thông với người khác và dẹp bỏ thành kiến về họ không tự nhiên mà đến.
Dạo cuối tháng Sáu vừa qua, trong một bài thuyết trình tại Hiệp hội Thư viện Mỹ (The American Library Association) ở Chicago, bà Hillary Clinton, cựu ngoại trưởng và ứng cử viên tổng thống Mỹ thuộc Đảng Dân Chủ trong cuộc bầu cử năm 2016 vừa qua, có nói rằng bộ sách Harry Potter là một cây đũa thần giúp xây dựng sự cảm thông nơi độc giả trẻ.
Tháng Sáu vừa qua, quyển đầu tiên trong bộ sách Harry Potter là “Harry Potter và Hòn Đá Phù Thủy” (Harry Potter and the Sorcerer’s Stone) đã kỷ niệm đúng 20 năm chào đời. Tên Harry Potter đã hầu như trở thành bất tử trong thế giới ngày nay. Bà J.K Rowling, tác giả của bộ sách gồm 7 quyển, đã nói rằng khi viết bộ sách này, bà không chỉ nhắm đến tuổi thơ hay giới trẻ, mà cho mọi lứa tuổi. Biết vậy cho nên, tuy muộn màng, tôi cũng tập làm quen với nhân vật Harry Potter. Tập truyện quả là hấp dẫn. Cầm lên là không muốn bỏ xuống!
Về bài học cảm thông của truyện Harry Potter, bà Clinton trích dẫn một cuộc nghiên cứu theo đó những người trẻ nào đọc  xong Harry Potter cũng đều tỏ ra cảm thông hơn với người di dân, tỵ nạn và nhóm người mà người Mỹ gọi tắt là LGBT (Lesbian, Gay, Bisexual, Transgender: đồng tính nam nữ, lưỡng tính, chuyển giống).
Cuộc nghiên cứu được bà Clinton trích dẫn có tựa đề “Ma thuật vĩ đại nhứt của Harry Potter là: làm giảm thành kiến” (The Greatest Magic of Harry Potter: Reducing Prejudice). Những người thực hiện cuộc nghiên cứu này khẳng định rằng những độc giả trẻ nào đã đọc truyện Harry Potter và xem nhân vật này như thần tượng đều ít hay nhiều gạt bỏ thành kiến đối với các nhóm thiểu số.
Thực hiện cuộc nghiên cứu này là một nhóm chuyên gia người Ý. Họ đã làm những cuộc thử nghiệm tại một số trường tiểu học, trung học và đại học tại Ý và Anh Quốc. Trưởng nhóm nghiên cứu, Giáo sư Loris Vezzali, thuộc trường Đại học Modena và Reggio Emilia, Ý, giải thích rằng sự cảm thông chính là yếu tố  làm giảm thành kiến. Theo ông, thế giới của Harry Potter là một thế giới giai cấp do đó đẩy dẫy thành kiến. Harry Potter đã có những cuộc tiếp xúc đầy ý nghĩa với những người thuộc những nhóm bị ức hiếp và đẩy ra bên lề. Cậu đã tìm cách cảm thông với họ, đón nhận những khó khăn của họ khi bị kỳ thị để rồi chiến đấu hầu xây dựng một thế giới không còn bất bình đẳng xã hội.
Trong phần đầu của cuộc nghiên cứu, các nhà tâm lý đã mời 34 học sinh lớp Năm bậc tiểu học ở Ý trả lời cho một bản câu hỏi về thái độ của các em đối với người di dân. Sau đó, trong vòng 6 tuần lễ, các em được cho đọc một số trích đoạn từ bộ sách Harry Potter có liên quan đến cái nhìn đầy thành kiến xấu đối với người khác. Sau khi đọc sách, các em học sinh tiểu học Ý trả lời cho một bản câu hỏi cũng liên quan đến người di dân. Kết quả cho thấy các em đã thay đổi thái độ đối với người di dân, nhứt là những em nào tự đồng hóa với nhân vật Harry Potter.
Trong phần thứ hai của cuộc nghiên cứu, các chuyên gia tâm lý đã làm việc với một nhóm sinh viên ở Anh. Cuộc nghiên cứu cũng đã cho thấy sau khi đọc sách Harry Potter, các sinh viên Anh đã có cái nhìn thiện cảm hơn đối với người tỵ nạn (x.https://www.psychologytoday.com/blog/the-athletes-way/201505/does-reading-harry-potter-books-reduce-prejudice).
Bà J.K Rowling cho biết tập truyện Harry Potter của bà, ngoài sự chết và bất tử, còn  gồm nhiều chủ đề chính như quyền lực, lạm dụng quyền lực, bạo động, hận thù và thành kiến. Đối lại với những sức mạnh của sự dữ ấy, tác giả đã mặc cho nhân vật chính tinh thần khoan nhượng. Theo bà, đó là một trong những ý nghĩa luân lý nổi bật trong tập truyện.
Tôi đoán chừng đó là niềm xác tín của bà. Có lẽ bà muốn bày tỏ niềm xác tín ấy qua một số phản ứng gần đây trước những Tweet đầy miệt thị của Tổng thống Donald Trump đối với giới truyền thông. Chẳng hạn, một lần bà trích dẫn câu nói của Tổng thống Abraham Lincoln: “Hầu như tất cả mọi người đều có thể đương đầu với nghịch cảnh. Nhưng nếu bạn muốn trắc nghiệm tính tình của một người, bạn chỉ cần trao quyền lực cho người đó”. Và mới đây, cũng phản ứng về các Tweet của ông Trump, bà trích  lời khuyên của của Tổng thống George Washington: “Kiên trì trong nhiệm vụ và giữ thinh lặng là sự đáp trả tốt nhứt trước sự vu khống”.
Một số học giả và ký giả cho rằng bà J.K Rowling có lẽ cũng muốn gói ghém một thông điệp chính trị trong tập truyện Harry Potter. Nhìn vào chính trường thế giới hiện nay, tôi cũng đọc Harry Potter dưới nhãn quan ấy. Chưa bao giờ dân tộc chủ nghĩa và bóng ma của độc tài lại đe dọa thế giới cho bằng ngày nay. Không nói đến các chế độ độc tài đảng trị tại một số nước cộng sản còn rơi rớt lại trên thế giới, ngay tại một số nước đã từng có một nền dân chủ lâu đời, dân tộc chủ nghĩa và độc tài đang lăm le tước đoạt những quyền tự do căn bản của con người. Tựu trung, dân tộc chủ nghĩa hay độc tài cũng đều là thể hiện của sự bất khoan nhượng và cuồng tín: người ta không muốn chấp nhận tính dị biệt của xã hội và để cho người khác được suy nghĩ bằng cái đầu của họ cũng như bày tỏ ý kiến của họ. Đâu chỉ có những tổ chức khủng bố như Al-Qaeda, như Boko Haram, như “Quốc gia Hồi giáo” mới có cái nhìn đầy cực đoan, cuồng tín  về những người không đồng đạo với họ. Các chế độ độc tài đảng trị như Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, như Trung Cộng, như Bắc Hàn cũng cực đoan và cuồng tín đâu khác gì các tổ chức khủng bố. Và ở những nước dân chủ tự do, những nhà lãnh đạo đang bị quyền lực quyến rũ và làm cho mù quáng cũng muốn đi theo con đường đó cực đoan ấy. Chỉ có khoan nhượng và cảm thông mới có thể cứu vãn thế giới khỏi cơn mê muội ấy. Harry Potter là bộ sách không chỉ dành cho thiếu nhi hay giới trẻ. Những nhà lãnh đạo thế giới có lẽ cần học thứ “ma thuật” của sự cảm thông nơi Harry Potter.
Ở Úc, mùa đông năm nào tổ chức từ thiện Salvation Army của Giáo hội Anh giáo cũng đều mở chiến dịch kêu gọi quyên góp để giúp đỡ những người nghèo khổ, đặc biệt là những người vô gia cư. Kèm với một chút tiền và hiện vật, món quà có giá trị và ý nghĩa nhứt dành cho họ vẫn là sự cảm thông.
Và dĩ nhiên, với riêng tôi, món quà đặc biệt nhứt mà chính những người vô gia cư và khốn khổ dành cho tôi chính là sự hiện diện của họ: sự hiện diện ấy gợi lên trong tôi sự cảm thông. Cuộc sống của tôi chắc chắn sẽ có ý nghĩa hơn nếu tôi luôn biết sống cảm thông!









Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét