07/07/17
Cách đây đúng 50 năm, 1967 Israel đã làm cho cả thế giới
sửng sốt khi đem quân chiếm trọn những lãnh thổ của Palestine tại Tây Ngạn, Phía
Đông Jerusalem, Dải Gaza cũng như Đồi Golan của Syria và Bán đảo Sinai của Ai Cập.
Tất cả chỉ diễn ra trong vòng 6 ngày cho nên thường được mệnh danh là Cuộc chiến
Sáu Ngày hay Cuộc chiến Tháng Sáu.
Cuộc chiến Sáu Ngày đã diễn ra giữa Israel và ba nước Á Rập
là Ai Cập, Jordan và Syria. Cuộc chiến này là cao điểm của một cuộc chiến dai dẳng
đã bùng nổ từ năm 1948. Đây là năm Israel tuyên bố lập quốc sau một chuỗi những
hành động tàn bạo nhằm thanh lọc chủng tộc Palestine. Với sứ mệnh thành lập quốc
gia Israel, những người Do Thái tản mác trên khắp thể giới đã trở về Palestine.
Những người Do Thái thường được mệnh danh là “Những người trở về Sion” (Zionist)
đã trục xuất khoảng 750.000 người Palestine ra khỏi quê hương của họ. Không biết
bao nhiêu làng mạc của người Palestine bị phá hủy. Dĩ nhiên, liền sau khi
Israel tuyên bố lập quốc, quân đội của các nước Á Rập láng giềng đã tham gia
chiến đấu để bảo vệ dân tộc Palestine. Nhưng không có quân đội và ngay cả quốc
gia, người Palestine là những kẻ chịu thiệt thòi nhiều nhất. Khi cuộc chiến năm
1948 kết thúc, quân đội Israel đã chiếm đến 78 phần trăm lãnh thổ của người
Palestine. 22 phần trăm lãnh thổ còn lại rơi vào tay Ai Cập và Jordan.
Đến năm 1967, Israel lại nuốt trọn lãnh thổ của Palestine
cũng như một phần đất của Ai Cập và Syria. Sau cuộc chiến 1967, Israel đã trục
xuất thêm 430.000 người Palestine ra khỏi quê hương của họ và làm cho lãnh thổ
của riêng họ tăng thêm ba phần tư so với phần đất họ đang có.
Về cuộc chiến 1967 hay Cuộc chiến Sáu Ngày, trong quan hệ
phức tạp giữa khối Á Rập và Israel, mỗi bên đều đưa ra một trình thuật riêng.
Tuy nhiên, không thể phủ nhận một số nguyên nhân khách quan khiến cho cuộc chiến
bùng nổ.
Trước hết phải kể đến những cuộc đụng độ thường xuyên sau
hiệp định đình chiến giữa Israel và Syria cũng như giữa Israel và Jordan. Hàng
trăm ngàn người tỵ nạn Palestine tìm cách vượt biên giới để tìm kiếm thân nhân
của họ cũng như trở về nhà và tìm lại tài sản đã mất. Theo ước tính, từ năm
1949 đến năm 1956, đã có khoảng từ 2000 đến 5000 người Palestine tìm cách vượt
biên giới để trở về nhà.
Năm 1953, một cuộc tàn sát dã man đã xảy ra tại Qibya, một làng Palestine tại Tây Ngạn. Trong
một cuộc hành quân được đặt tên là
“Shoshana” dạo tháng 10 năm 1953, quân đội Israel đã thiêu hủy 45 ngôi nhà và
tàn sát ít nhất 69 người Palestine.
Ba năm sau, tức năm 1956 lại diễn ra điều thường được gọi
là Cuộc khủng hoảng Kinh đào Suez. Cùng với Pháp và Anh, Israel đã đem quân xâm
chiếm Ai Cập với hy vọng lật đổ tổng thống nước này là ông Gamal Abdel Nasser
sau khi ông tuyên bố quốc hữu hóa Công ty Kinh đào Suez. Trong thực tế đây là một
công ty chung của Anh và Pháp.
Tuy nhiên, sau đó lực lượng của Israel, Pháp và Anh bị buộc
phải triệt thoái khỏi Ai Cập để nhường lại
cho lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc nhiệm vụ giám sát biên giới
giữa Israel và Ai Cập.
Trước cảnh nước mất nhà tan, vào khoảng giữa hai thập
niên 1950 và 1960, người Palestine đã tổ chức được một phong trào “Fedayeen”, tức phong trào kháng chiến chống
lại Israel.
Năm 1966, tức một năm trước khi Cuộc chiến Sáu Ngày bùng
nổ, quân đội Israel đã tảo thanh và càn quét tại làng As Samu của người
Palestine trong vùng Tây Ngạn. Đây là cuộc hành quân qui mô nhất kể từ sau cuộc
khủng hoảng Kinh đào Suez cách đó 10 năm. Sở dĩ quân đội Israel mở cuộc hành
quân vào làng As Samu là vì một nhóm thuộc phong trao kháng chiến Fatah của người
Palestine đã giết một số binh sĩ Israel.
Trong cuộc tảo thanh, quân đội Israel đã thiêu hủy hàng chục ngôi nhà, tàn sát
18 người và làm bị thương trên 100 người.
Song song với những cuộc hành quân của Israel nhắm vào người Palestine, quan hệ của nước
này với nước láng giềng Jordan cũng ngày càng căng thẳng thêm vì những tranh chấp
về việc sử dụng nước của Sông Jordan và việc canh tác của người Israel dọc theo
dòng sông. Đây là một trong những nguyên nhân châm ngòi cho Cuộc chiến Sáu Ngày.
Tình hình đã căng thẳng, ngày 13 tháng Năm 1967, Liên Xô
lại nhào vô thọc gậy bánh xe khi tung tin thất thiệt cho Ai Cập rằng Israel đang
huy động lực lượng để xâm lăng Syria. Theo một hiệp ước được ký kết giữa Ai Cập
và Syria năm 1955, hai nước cam kết sẽ bảo vệ nhau nếu một trong hai nước bị một
nước khác tấn công.
Chính vì được Liên Xô báo động “giả” mà Ai Cập đã ra lệnh
cho các lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc phải triệt thoái ra khỏi
Sinai và đem quân đến trú đóng ở đó. Vài ngày sau, Tổng thống Ai Cập Abdul
Nasser cũng ra lệnh phong tỏa tàu bè của Israel trong Biển Đỏ.
Vào khoảng cuối tháng Năm, Ai Cập và Jordan ký thỏa hiệp
bảo vệ hỗ tương giữa hai nước. Với hiệp ước này, quân đội Jordan được đặt dưới
quyền chỉ huy của Ai Cập. Không bao lâu sau đó, Iraq cũng gia nhập vào liên
minh này.
Nhưng liên minh do Ai Cập lãnh đạo không ngờ rằng sáng sớm
ngày 5 tháng Sáu, Israel đã bất thần tung ra một cuộc tấn công nhắm vào các căn
cứ không quân của Ai Cập. Cuộc tấn công bất ngờ này khiến cho không lực của Ai
Cập hầu như hoàn toàn bị tê liệt. Nhờ vậy mà chỉ trong một ngày bộ binh Israel
đã xâm chiến Dải Gaza và Bán đảo Sinai của Ai Cập. Ngoài ra cũng trong buổi tối
ngày 5 tháng Sáu, Israel cũng tấn công các căn cứ không quân của Syria. Ngày
hôm sau, bộ binh Israel đã đánh bại lực lượng Jordan để chiếm miền Đông
Jerusalem vốn do Jordan kiểm soát. Rạng ngày 7 tháng Sáu, Chỉ huy trưởng lực lượng
Israel, tướng Moshe Dayan đã ra lệnh cho quân đội tiến chiếm luôn Cổ Thành nằm ở
phía Đông Jerusalem. Ngày hôm đó, Liên Hiệp Quộc đã kêu gọi ngưng chiến. Nhưng
các nhà ngoại giao của Israel tại Thủ đô Hoa Thịnh Đốn tìm cách thuyết phục Hoa
Kỳ làm ngơ trước lời kêu gọi ngưng chiến của Liên Hiệp Quốc để họ có thêm thời
giờ hầu thanh toán trọn bộ lãnh thổ của người Palestine.
Vào giữa trưa ngày 7 tháng Sáu, các lực lượng Israel đã
chiếm lấy Cổ Thành khỏi tay Jordan. Và một
ngày sau đó, những thành phố lớn tại Tây Ngạn như Nablus, Bethlehem, Hebron và
Jericho của người Palestine đều rơi vào tay quân đội Israel.
Sau khi chiếm được Cổ Thành, quân đội Israel đã phá hủy
toàn bộ khu vực của người Morocco vốn đã có từ trên 700 năm. Họ mở rộng biên giới
về Bức Tường Phía Tây mà người Hồi giáo quen gọi là Bức tường Al-Buraq. Đây là
một linh địa nổi tiếng đối với cả người Do Thái lẫn người Hồi giáo. Khoảng 100
gia đình người Palestine đang sinh sống trong khu vực bị ra lệnh phải di tản;
quân đội Israel đã dội bom bình địa khu vực. Israel đã cho xây lên khu “Western
Wall Plaza” để người Do Thái có thể trực tiếp đến Bức Tường Phía Tây.
Trong suốt cuộc chiến và thừa lệnh của ông Yitzhak Rabin,
người sau này trở thành thủ tướng Israel, các lực lượng Israel đã thanh lọc chủng
tộc và phá hủy nhiều làng mạc của người Palestine, trục xuất cả chục ngàn người.
Tại hai thành phố Qalqilya và Tulkaren, cũng nằm trong
vùng Tây Ngạn của người Palestine, quân đội Israel phá hủy toàn bộ nhà cửa của
họ. Trong hồi ký của mình, Tướng Moshe Dayan viết rằng để gọi là “trừng phạt” họ,
hàng chục ngàn người Palestine bị đuổi ra khỏi nhà cửa của họ.
Riêng Đồi Golan của Syria, quân đội Israel đã mở cuộc tấn
công vào ngày 9 tháng Sáu và ngày hôm sau, Đồi này thất thủ, đưa quân đội
Israel đến sát nách Thủ đô Damascus của Syria.
Cuộc chiến chỉ diễn ra đúng 6 ngày. Ngày 9 tháng Sáu, Ai
Cập và Israel đã đồng ý ngưng chiến. Hai ngày sau, Syria và Israel cũng chấp nhận
hưu chiến và với sự vận động của Liên Hiệp Quốc, một cuộc đình chiến đã chính
thức chấm dứt cuộc chiến Sáu ngày.
Tổng cộng đã có khoảng 430.000 người Palestine bị bứng ra
khỏi nhà cửa và làng mạc của họ. Phần lớn xin tỵ nạn tại Jordan. Trước đó, khoảng
một nửa số người tỵ nạn Palestine đã bị trục xuất ra khỏi làng mạc của họ từ
năm 1948.
Cuộc chiến Sáu ngày đã làm thay đổi hoàn toàn bộ mặt của
Trung Đông. Từ 50 năm qua, vết thương lòng của người Palestine và ngay cả người
Á Rập vẫn không bao giờ lành và niềm tin của họ đối với các chính phủ trong khối
Á Rập cũng không bao giờ được tái lập.
Trong 6 ngày, Israel đã đưa hơn một triệu người Palestine
tại Tây Ngạn, Đông Jerusalem và Dải Gaza vào vòng kiểm soát chặt chẽ của họ. Cuộc
chiến cũng đã biến Israel thành một quốc gia có đông người Palestine nhất.
Riêng với người Palestine, cuộc chiến đã làm phát sinh phong trào kháng chiến với
quyết tâm dùng vũ lực để giành lại đất nước của mình trong hai thập niên 1970
và 1980.
Với người Israel, việc chiếm đóng lãnh thổ của người
Palestine dã mang lại cho họ phấn khởi. Hàng chục ngàn người Do Thái đã đổ xô về
Bức Tường Phía Tây để cảm tạ Thượng Đế vì đã thực hiện phép lạ cho họ và cũng để
bày tỏ niềm xác tín rằng toàn bộ lãnh thổ Palestine là Đất đã được Thượng Đế hứa
ban cho họ.
Với niềm tin tưởng ấy, lãnh thổ của người Palestine bị họ
cưỡng chiếm đã biến thành một vùng định cư mới: nhiều người đã đến lập nghiệp,
xây cất nhà cửa tại Tây Ngạn và Dải Gaza.
Nhưng quan trọng hơn, Cuộc chiến Sáu ngày cũng đã đặt ra
vấn đề về phong trào thực dân của người Do Thái. Sau cuộc chiến, Liên Hiệp Quốc
đã thông qua Nghị quyết 242 để kêu gọi Israel từ bỏ lãnh thổ chiếm đóng của
Palestine để đổi lấy hòa bình với các nước láng giềng. Nhưng bất chấp nghị quyết
của Liên Hiệp Quốc, Israel khuyến khích dân chúng sang định cư tại những vùng
được chiếm đóng. Chỉ một năm sau cuộc chiến, đã có 6 vùng định cư của Israel được
thành lập tại Đồi Golan. Riêng tại Tây Ngạn và Dải Gaza, tính đến năm 1973,
Israel cũng đã thành lập tổng cộng 20 khu định cư cho người Do Thái.
Quốc gia Do Thái, tức Israel, được thành lập vào năm
1948. Chủ quyền của nước này được hầu hết các nước trên thế giới nhìn nhận.
Nhưng cho tới nay, việc chiếm đóng lãnh thổ của người Palestine vẫn tiếp tục bị
cộng đồng thế giới lên án. Đây là cuộc chiếm đóng dài nhất trong lịch sử hiện đại.
Trong Dải Gaza và Tây Ngạn hiện vẫn còn khoảng trên 5 triệu
người Palestine sinh sống. Nại đến lý do an ninh, quân đội Israel được trao trọn
quyền kiểm soát. Họ đã dựng lên hàng trăm trạm kiểm soát trong 2 vùng này.
Ngoài một thứ thẻ thông hành đặc biệt để đi lại, người Palestine còn bị ngăn
cách với thân nhân của họ bởi một Bức tường Ngăn cách.
Trong một bản phúc trình được cho công bố dạo đầu tháng
Sáu vừa qua, bà Sarah Leah Whitson, Giám đốc Phân bộ Trung Đông của Tổ chức
Theo dõi Nhân quyền nói rằng “Dù là một đứa trẻ bị một tòa án quân sự giam giữ
hay bị bắn chết một cách bất công, dù là một ngôi nhà bị phá hủy vì cho là
không có giấy phép, dù là những trạm kiểm soát mà chỉ có người (Do Thái) định
cư mới được phép đi qua, ít có người dân Palestine nào tránh khỏi những vụ vi
phạm nhân quyền trong những vùng bị chiếm đóng kéo dài từ 50 năm qua”.
50 năm bị đọa đày và tỵ nạn ngay chính trên quê hương của
mình, có lẽ ít có dân tộc nào có một số phận đau thương như người Palestine.
Nguồn: (http://www.aljazeera.com/indepth/features/2017/06/50-years-israeli-occupation-longest-modern-history)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét