Thứ Tư, 12 tháng 4, 2017

Nói lời phải giữ lấy lời…


Chu Thập
10.09.13

Không hiểu tại sao lúc nhỏ tôi thường nghe người lớn nói: “nhà báo nói láo ăn tiền”. Thời tiểu học, vì “bận” trốn học cho nên tôi không có giờ để đọc báo. Lên trung học, nhứt là vào thời Đệ nhị cộng hòa, thỉnh thoảng tôi cũng cầm tờ “nhựt trình” hàng ngày của cha tôi để lướt qua bản tin “từ thành đến tỉnh”. Trước khi Việt cộng đến, Miền Nam Việt Nam cũng có đến cả chục tờ báo. Không biết mấy ông nhà báo thời đó có “nói láo”không. Nhưng ít nhứt báo độc lập và đối lập thì không thiếu. Mãi cho đến sau 75, tôi mới ngộ ra thế nào là “nhà báo nói láo ăn tiền”. Chuyện mấy ông nhà báo Việt cộng ngồi nhà rung đùi, nhậu nhẹt, hút xách mà vẫn có thể viết được phóng sự về các biến cố xảy ra ở đâu đâu là chuyện chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Có ông còn viết phóng sự trước khi xảy ra biến cố nữa là! Mấy ông nhà báo cộng sản nói láo hay đến độ thời mồ ma cộng sản Liên Xô, dân chúng Nga phải kéo nhau đến tòa soạn báo “Pravda” (Sự Thật) để mua thực phẩm. Biết đâu một dạo người dân cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã chẳng chạy đến tòa soạn báo “Nhân Dân” để xếp hàng chờ mua thực phẩm theo chế độ tem phiếu!


Ngày nay, ở nước ngoài, tôi thấy “nói láo ăn tiền” đối với nhà báo không phải là chuyện dễ đâu. Có chuyện gì mà người ta không kiểm chứng được. Viết bậy, viết láo, nếu không bị kiện cáo, đòi bồi thường hay đi tù thì cũng bị “treo bút” như chơi. Chắc vì sợ bị kiện mà nhà báo ở Úc cũng không “nói láo” cho lắm nên được xếp hạng 43, cũng đỡ khổ.

Trong các thứ nghề, tôi nhận thấy có lẽ chỉ có nghề quảng cáo là được phép “nói láo ăn tiền” mà thôi. Đây cũng là một thứ nghề được phép quấy rầy người khác mà không sợ bị tẩy chay. Ngày nay, có chạy đàng nào cũng không tránh khỏi phải thấy hay nghe quảng cáo. Cứ bước ra ngõ là đã thấy quảng cáo. Cứ vào Internet ra là bị bao vây bởi quảng cáo. Và nhứt là cứ mở truyền thanh truyền hình ra là bị oanh tạc bởi quảng cáo. Có lúc tôi ngồi tính xem mỗi ngày mình phải “bị” tra tấn bởi quảng cáo bao nhiêu lần: có lẽ không dưới một trăm lần! Chỉ riêng khi ngồi trước màn ảnh truyền hình, đặc biệt là khi theo dõi một chương trình giải trí hay học hỏi, trung bình cứ 5 phút là phải xem và nghe một loạt quảng cáo cũng có một thời lượng tương đương với những gì mình đang thưởng thức. Xem một chương trình kéo dài nửa giờ, mình phải chịu đựng các màn quảng cáo cũng đến nửa giờ hoặc hơn. Ngoại trừ thơ nhi, có lẽ chẳng có ai muốn “thưởng thức” các chương trình quảng cáo cả. “Quảng cáo” đã chẳng đồng nghĩa với “nói láo” hay “ba xạo” đó sao. Thế giới của quảng cáo là thế giới không tưởng trong đó chuyện gì cũng có thể xảy ra được cả. Phục mấy ông bà quảng cáo: họ có óc tưởng tượng phong phú đến độ chuyện gì cũng vẽ ra được. Cái sướng của họ là được quyền nói láo “như thiệt” mà chẳng sợ bị ai tố cáo hay tẩy chay cả.

Dĩ nhiên, vì biết quảng cáo là “nói láo ăn tiền” cho nên chẳng mấy ai tin họ. Chẳng thế mà trong 30 thứ ngành nghề trong xã hội, quảng cáo, bán xe, bán bảo hiểm, bán nhà…là bốn nghề ít được dân chúng Úc tin tưởng nhứt.Nhưng kể cũng lạ. Bất cứ cuộc thăm dò nào về lòng tin của dân chúng Úc đối với các ngành nghề trong xã hội cũng đều xếp các chính trị gia ngang ngửa với quảng cáo và mấy nghề trên đây. Thì ra làm chính trị là phải biết nói láo. Ai nói láo hay, nói láo mà thuyết phục được người nghe thì người đó thắng. Một chính sách được một Đảng chính trị hay một lãnh tụ chính trị đề ra có khác gì với một màn quảng cáo về hàng hóa đâu. Cứ nghe hay đọc thử một cương lĩnh của một ứng cử viên hay một đảng phái trong mùa bầu cử ở bất cứ nơi nào trên thế giới tự do, thì nói như kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa khi nhận định về chương trình hành động của tổng thống Barack Obama trong nhiệm kỳ đầu, người ta cũng có thể mang cả cung trăng ra mà rao bán nữa! Nói theo Á Đông chúng ta thì quảng cáo trong chính trị cũng chẳng khác với “sơn đông mãi võ” bao nhiêu.

Về vị tổng thống người Mỹ gốc Phi Châu đầu tiên này, nhân cuộc khủng hoảng tại Syria, người ta lại bắt đầu nghi ngờ về thiện chí xây dựng hòa bình của ông. Ông đã đắc cử một phần vì đã chống lại chiến tranh Iraq mà ông gọi là một “cuộc chiến ngu xuẩn”. Khai mở nhiệm kỳ đầu tiên, ông đã đi khắp nơi, nhứt là đến thế giới hồi giáo để đưa bàn tay ra để đối phương cũng phải mở rộng bàn tay ra bắt lấy. Những thành tựu về hòa giải của ông đã xứng đáng để mang về cho ông giải thưởng Nobel Hòa Bình. Nhưng nếu con đường nào cũng dẫn ông tổng thống “diều hâu” George Bush Jr đến thủ đô Bagdad của Iraq thì một Obama khôi nguyên của giải thưởng Nobel Hòa Bình cuối cùng cũng đành chọn con đường dẫn đến Damascus của Syria, tức con đường của sức mạnh bạo lực thay cho lý trí. Đa số người dân Mỹ chống lại việc trả đũa hay trừng phạt Syria vì đã xử dụng vũ khí hóa học để sát hại chính dân mình. Nhiều tổ chức dân sự và tôn giáo trên khắp thế giới cũng lên tiếng kêu gọi Hoa Kỳ hãy tự chế. Nhưng cho tới nay, tổng thống Obama vẫn một mực yêu cầu Quốc Hội ủng hộ quyết định của ông nhằm tấn công vào Syria.

Con người “hòa giải” và không ngừng lên án chiến tranh như tổng thống Obama cuối cùng rồi cũng hiện nguyên hình là một người hiếu chiến. Làm chính trị mà tuân giữ cam kết và những lời hứa đâu phải là chuyện dễ. Có lẽ cũng vì vậy mà người dân Úc không đặt niềm tin nơi các chính trị gia. Chỉ cần nhìn lại lịch sử gần đây của quốc gia miệt dưới này, cũng đủ để thấy rằng các lãnh tụ chính trị là người “nuốt lời” dễ hơn bất cứ hạng người nào trong xã hội. Từ ông John Howard đến ông Rudd, rồi bà Gillard, có vị thủ tướng nào mà chẳng hứa hẹn và thề thốt đủ điều, nhưng liền sau đó sẵn sàng quên bẵng đi những gì mình đã cam kết.

Liệu tân thủ tướng Tony Abbott, người đã từng được mệnh danh là “ông thày dòng điên”, có phải là một ngoại lệ không? Ông đã cam kết tái lập niềm tin nơi dân chúng. Dân chúng đã đặt tin tưởng nơi ông. Nhưng tôi vẫn lo ngại rằng trong cái nghề vốn chỉ ngang ngửa hay đứng trên nghề quảng cáo, bán xe hơi, bán bảo hiểm và bán nhà một chút về “chữ tín”, rồi ra ông tân thủ tướng của tôi có lẽ cũng sẽ “xí xóa” để “nuốt lời” và thanh minh rằng vì tình thế không cho phép cho nên buộc lòng phải “nuốt lời” mà thôi.Có những nghề như y tá hay bác sĩ chẳng hạn được dân chúng đặt tin tưởng vào hầu như tuyệt đối. Nhưng lý do hiện hữu của họ không phải là lòng tin của người khác cho bằng chính lương tâm chức nghiệp.  Họ làm việc vì sự đòi hỏi của lương tâm hơn là vì niềm tin của người khác.Trong khi đó, những người phải dùng ba tấc lưỡi của mình để thuyết phục người khác thì chắc chắn chỉ có thể sống còn nhờ vào lòng tin của người khác mà thôi. Người khác tin tưởng, họ được bầu chọn và tưởng thưởng. Người khác không tín nhiệm, họ ngả nghiêng và bị tẩy chay. Đó là số phận tất yếu của những người không đáp trả lại niềm tin tưởng của người khác bằng “chữ tín”.

Tôi liên tưởng đến câu chuyện của một tên trộm bất đắc dĩ phải làm thiền sư. Một phú ông nọ có một ao cá. Ngày nọ, trong cơn túng quẩn, một anh nông dân đã xâm nhập vào vườn của ông để bắt trộm cá trong ao. Không may cho anh, vì nghi ngờ có người lẻn vào lãnh địa của mình cho nên phú ông mới sai gia nhân đi lùng sục khắp trong vườn. Trông thấy đèn đuốc sáng trưng đang tiến về phía mình, tên trộm cá biết mình đang bị săn bắt. Nhưng vốn là một người thông minh, anh liền cởi phăng áo ra và lấy bùn dưới ao trét lên người. Sau đó, anh rón rén đến ngồi dưới một gốc cây bên cạnh bờ ao, mắt nghiền nhắm lại như thể đang ngồi thiền. Sau một hồi tìm kiếm, toán gia nhân của phú ông không nhận ra dấu hiệu nào cho thấy có người xâm nhập gia cư bất hợp pháp hay trộm cắp, mà chỉ thấy có một người đàn ông đang trong tư thế thiền định. Họ về thuật lại cho phú ông nghe. Nghe thế phú ông rất vui mừng vì tin rằng có một tu sĩ “đạo đức” đã chọn dinh cơ của ông làm nơi thiền định. Ông liền chạy ra bờ ao và cung kính dâng lên cho vị tu sĩ những phẩm vật quý giá nhứt để bày tỏ tấm lòng thành kính của mình. Ngày hôm sau, tin tức về “vị tu sĩ vĩ đại” đã được lan truyền đi khắp vùng. Người ta đổ xô đến để kính bái vị tu sĩ và dâng cúng cho ông hoa trái cũng như tiền bạc. Người nông dân nghèo cùng đường bất đắc dĩ phải chọn con đường tu trì nghĩ bụng: “Từ nay mình có thể ngồi yên sống bằng niềm tin của mọi người thay vì phải lao nhọc vất vả như trước”. Và thế là anh tiếp tục ngồi dưới gốc cây bên cạnh ao cá của phú ông để thiền định và tận hưởng sự cung phụng của dân chúng.

Thật ra đâu có riêng gì trong lãnh vực tôn giáo người ta mới sống nhờ niềm tin của người khác. Trong ngành nghề, trong địa vị nào trong xã hội hay trong hoàn cảnh nào, con người cũng cần được người khác tin tưởng. Nhưng bù lại, để được người khác tin tưởng, mình cần phải tỏ ra là người đáng tin tưởng.

Người trọng “chữ tín” là người giữ điều mình hứa hẹn và cam kết. Cha ông chúng ta đã chẳng dạy: “Nói lời phải giữ lấy lời. Đừng như con bướm đậu rồi lại bay” sao. Trọng chữ tín là một phẩm chất cao quý của con người. Học lõm bõm vài chữ Hán, tôi cũng biết rằng “Chữ Tín” được kết hợp bởi bộ “Nhân” và chữ “Ngôn”, hàm ý rằng lời nói của con người cần phải phù hợp với hành vi, nghĩa là nói sao phải làm vậy mới tạo được lòng tin nơi người khác. Điều này có giá trị đặc biệt trong chính trị, tức việc trị nước. Một quốc gia có thể sụp đổ nếu không được xây dựng trên lòng tin. Giàu có thịnh vượng đến đâu, một quốc gia vẫn đánh mất “linh hồn” của mình nếu không có chữ tín.

Sách Luận ngữ có chép rằng một hôm một trong những đệ tử trung thành của Đức Khổng Tử là Tử Cống hỏi ngài rằng đâu là những yếu tố giúp thành công trong việc cai trị đất nước. Đức Khổng Tử kể ra 3 điểm quan trọng là: phải có đủ lương thực, phải có đủ binh lính và được lòng dân. Tử Cống lại hỏi: Nếu bất đắc dĩ phải bỏ một trong ba yếu tố đó thì thứ nào cần phải bỏ trước. Đức Khổng Tử trả lời: “Bỏ binh lính”. Tử Cống lại hỏi: “Nếu bất đắc dĩ phải bỏ thêm một điều nữa thì phải bỏ điều gì?” Đức Khổng Tử nói: “Bỏ lương thực”. Rồi ngài giải thích: “Từ xưa đến nay, ai cũng phải chết. Nhưng nhân dân mà mất niềm tin thì nước không đứng vững được”.

Bài học của Đức Khổng Tử không chỉ áp dụng vào việc cai trị đất nước, mà cũng có giá trị cho cuộc sống của từng cá nhân. Người bạo động, nghĩa là chỉ biết có sức mạnh của bạo động không phải là người có dũng lực thật sự. Bạo động là dấu hiệu của sợ hãi và yếu nhược. Người giàu có của cải vật chất cũng không đương nhiên là người hạnh phúc. Quyền lực, nhứt là quyền lực do của cải vật chất mang lại, chỉ là thứ quyền lực chóng tàn. Trái lại, người có “chữ tín” sẽ có tất cả. Giữ chữ tín là không để “mất” chính mình.Tôi cứ suy gẫm về câu chuyện của một bà cụ bán rau nghèo ở một gốc phố nào đó tại Hà Nội. Nhiều cô gái “chảnh” dừng lại nhìn các bó rau rồi nói như tát nước vào cụ: “Rau thế này mà bán cho người ăn à? Bà mang về mà cho lợn”. Cám cảnh trước hoàn cảnh đáng thương của cụ bà, một người đàn ông tốt bụng đã bỏ ra mười ngàn để mua hết mớ rau của bà. Nhưng vì phải đi làm, ông nhờ bà giữ giùm để chiều về sẽ trở lại lấy mớ rau. Nhưng rồi vì bận việc, ông đã quên trở lại. Vài tuần sau, ông có việc phải đi qua chỗ bà cụ ngồi bán rau, nhưng không thấy cụ đâu cả. Hỏi ra mới biết buổi chiều hôm đó, bà cụ ngồi dưới mưa bên mớ rau. Có người thấy thương hỏi mua giúp nhưng cụ nhứt quyết không bán…Nghe đâu cụ bị cảm lạnh và qua đời.

Cụ đâu biết rằng mình đã vô tình mang cả chữ tín ra khỏi xã hội Việt nam.          

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét