Thứ Sáu, 21 tháng 4, 2017

Đường thập giá, đường cảm thông


Chu Thập
14.04.17

Cách đây đúng một tuần lễ, những người Mỹ gốc Phi Luật Tân còn sống sót từ cuộc hành trình thường được mệnh danh là  “Tử lộ  Bataan” (Bataan Death March) đã tập trung về Thành phố San Francisco, Tiểu bang California, Hoa Kỳ để tưởng niệm đúng 75 năm biến cố này. Sở dĩ tôi đặc biệt chú ý đến cuộc hành trình khủng khiếp này là bởi vì Phi Luật Tân là nơi tôi đã sống và làm việc nhiều năm nhứt kể từ khi trở thành người tỵ nạn.
Nhưng không riêng tôi, tất cả những người tỵ nạn Việt Nam nào chuẩn bị vào Hoa Kỳ hoặc đi định cư tại một số quốc gia khác cũng đều không thể quên được địa danh Bataan. Bataan là một tỉnh nằm ở mạn Tây Bắc của Phi Luật Tân. Trại tỵ nạn dành cho người Việt được Chính phủ Phi cho xây cất ở một nơi đèo heo hút gió trong Tỉnh Bataan. Từ Thủ đô Manila vào trại này có khi phải mất  cả một ngày đường. Cách trại Bataan khoảng chừng 30 cây số là một đoạn đường đèo. Từ xa, trước khi xe bò lên đèo, người ta đã thấy trên đỉnh  núi Samat một cây thánh giá lớn. Đây chính là đài tưởng niệm mà năm 1966  Chính phủ Phi dưới thời cố Tổng thống Ferdinand Marcos đã cho dựng lên để tưởng nhớ các chiến sĩ Phi và Mỹ đã bỏ mình trong cuộc chiến chống  lại quân đội Nhựt Bổn. Núi Samat là nơi đã diễn ra trận đấu ác liệt năm 1942. Các binh sĩ Phi và Mỹ đã rút về Bataan để tử thủ. Nhưng vào ngày 9 tháng Tư năm 1942, chỉ sau 3 tháng cầm cự, vì kiệt sức và đói lả, 78.000 binh sĩ Phi và Mỹ đành phải đầu hàng quân đội Nhựt. Liền ngày hôm sau, tất cả các tù binh Phi và Mỹ đều bị quân đội Nhựt bắt phải đi bộ xuyên qua nhiều thành phố và làng mạc để đến một trạm xe lửa cách đó khoảng hơn một trăm cây số để rồi từ đó được chuyển đến một trại  giam. Dọc theo “Tử lộ Bataan”, vì bị bóc lột, hành hạ và bỏ đói, đã có khoảng gần 20.000 tù binh người Phi và trên dưới 500 tù binh Mỹ ngã gục. Những người còn sống sót kể lại rằng trong suốt “Tử lộ Bataan”, các tù binh bị hành hạ dưới nhiều hình thức khác nhau. Họ bị lột quần áo và bắt ngồi giữa trời nắng. Bất cứ thứ gì họ có trên người, ngay cả những chiếc răng vàng, cũng đều bị trấn lột. Bất cứ ai xin nước uống đều bị đem ra xử bắn. Những người té xỉu hoặc đi không nổi đều bị xe cán lên cho chết. Ngay cả những người còn khỏe mạnh cũng có thể bị các binh sĩ Nhựt dùng lưỡi lê để đâm vào người. Trong Đệ Nhị Thế chiến, Phi Luật Tân thường được nhắc đến vì “Tử lộ Bataan” và Nhựt Bổn cũng bị thế giới lên án vì tội ác chống lại nhân loại này.
Trong thời gian sống ở Phi Luật Tân, tôi rất thường đi lại con đường này, nhứt là vào ngày được Kitô Giáo gọi là “Ngày thứ Sáu Tuần Thánh”. Trong ngày này, các tín hữu Kitô đặc biệt tưởng niệm cái chết của Chúa Giêsu. Theo một truyền thống đã có từ lâu trong Ki Tô Giáo, người ta thường đi lại “Con đường Thập giá” của Chúa Giêsu, nghĩa là ôn lại và suy gẫm về cuộc hành trình của Ngài từ lúc bị kết án cho đến khi bị đóng đinh và treo lên thập giá. Các tín hữu Kitô thường gọi đó là “Đường thập giá” hay “Đường lên Núi Sọ”.  Lớn lên trong “nhà có đạo”, tôi đã thuộc nằm lòng từng “chặng” trong con đường thập giá của Chúa Giêsu. Tuy nhiên trong thời gian làm việc tại Phi Luật Tân, thay cho những giây phút tĩnh lặng hoặc hòa tiếng cầu kinh với các tín hữu khác trong “Con đường Thập giá” của Chúa Giêsu, tôi thường lái xe từ Manila vào trại tỵ nạn Bataan để dừng lại  chiêm ngắm cây thánh giá lớn trên đỉnh núi Samat và sống lại những nỗi cực hình mà các tù binh Phi và Mỹ đã trải qua trong “Tử lộ Bataan”. Tôi không biết chính xác con đường thập giá của Chúa Giêsu dài bao nhiêu, nhưng ở Phi Luật Tân, vào những tháng cao điểm của mùa hè là tháng Ba hoặc tháng Tư, với cái nóng chảy mỡ, đi bộ trong tình trạng bị hành hạ, đánh đập và đói khát trên một đoạn đường dài cả trăm cây số quả là một con đường thập giá khủng khiếp!
Dọc theo con đường này, có lẽ chưa cảm nghiệm đủ nỗi đau và cơn hấp hối của các tù binh Phi và Mỹ chăng, trong ngày thứ Sáu Tuần Thánh hằng năm, nhiều người Phi cũng “xuống đường”, kẻ vác thập giá trên vai, người dùng roi thiếc tua tủa  quất vào người cho đến khi máu chảy đầm đìa. Ở quốc gia hải đảo được xem là có đông tín hữu công giáo nhứt Á Châu này, Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh quả là một ngày “chết”. Tất cả mọi sinh hoạt đều ngừng lại: hàng quán đóng cửa, đường sá bình thường kẹt xe như mắc cửi đều trống trơn, người dân tránh ra đường, có người không chỉ kiêng thịt, mà còn kiêng cả tắm rửa nữa!  Nhưng phải về đến miền quê, nhứt là dọc theo “Tử lộ Bataan”, người ta mới thực sự nhìn thấy thế nào là “đường thập giá” đối với người dân Phi. Giữa cái nắng chang chang của mùa hè “đỏ lửa” theo đúng nghĩa, tôi không hiểu được tại sao có những người lại có thể  đi chân không vác thập giá xuyên qua một đoạn đường dài. Nhưng cảnh tượng làm cho tôi cảm thấy ái ngại nhứt vẫn là việc người ta dùng roi thiếc đánh vào người cho đến độ chảy máu lai láng để gọi là “hãm xác và đánh tội”. Và dĩ nhiên khủng khiếp, khó tưởng tượng và cũng khó chấp nhận hơn cả vẫn  là cảnh nhiều người, cũng tại một làng quê nằm dọc theo “Tử lộ Bataan”, tự nguyện chịu đóng đinh để được treo lên thập giá như Chúa Giêsu.
Đây là những cảnh tượng thu hút khách ngoại quốc. Hàng năm vẫn có nhiều người từ các nước đến Phi Luật Tân để xem những cảnh như thế. Không rõ có phải xuất phát từ Mễ Tây Cơ là cứ địa của các nhà truyền giáo Tây Ban Nha trước khi được gởi sang Phi Luật Tân không, các thực hành tôn giáo bình dân này đã ăn sâu vào văn hóa của người công giáo ở quốc gia hải đảo này. Ăn sâu đến độ mặc cho những cảnh cáo và cấm đoán của các nhà lãnh đạo tôn giáo, những thực hành tôn giáo “ngoài luồng” này vẫn sống mạnh trong tâm thức của người dân Phi, nhứt là người nghèo ở miền quê. Với những người dân quê nghèo này, mỗi Thứ Sáu Tuần Thánh hằng năm là dịp để đánh tội, vác thập giá và chịu đóng đinh với hy vọng được Thiên Chúa tha thứ và chúc lành hầu làm ăn thịnh đạt và thoát khỏi cảnh nghèo. Nhìn cảnh tượng này, tôi thấy “tội nghiệp” cho Thiên Chúa. Người ta vô tình tô vẽ cho Ngài bộ mặt của một người cha tàn nhẫn, vô nhân đạo, thích thú nhìn thấy con cái mình chịu khốn khổ rồi mới chịu rộng tay ban phúc lành!
Mỗi năm, đi lại “Tử lộ Bataan” của các binh sĩ Phi và Mỹ trong thời Đệ nhị Thế chiến, rồi nhìn cảnh “tự hành hạ” của người dân quê nghèo, tôi không thể không suy nghĩ về ý nghĩa của thập giá trong cuộc sống của chính mình. Thập giá là biểu tượng trọng tâm của Kitô Giáo. Ở đâu có Kitô Giáo, ở đó có thập giá. Thời nào cũng thế, các chế độ cấm đạo nào cũng đều tìm cách tiêu diệt thập giá. Ở đâu cũng vậy, muốn bắt một tín hữu Kitô chối đạo, người ta buộc họ phải chà đạp hay bước qua thập giá.
Chúa Giêsu đã vác thập giá và đã bị đóng đinh vào thập giá. Cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài được tuyên tín theo nhiều tín điều của Kitô Giáo và được các nhà thần học suy nghĩ và nhìn dưới nhiều góc cạnh khác nhau. Nhưng trong suy nghĩ riêng của mình, tôi nhận thấy một điều: Chúa Giêsu không hề đi tìm thập giá và tự nguyện vác lấy thập giá để bị treo lên thập giá. Cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài là hồi kết tất yếu của cuộc đối đầu giữa Ngài và các nhà lãnh đạo Do Thái Giáo thời Ngài. Ngài chống lại thứ tôn giáo bày ra đủ mọi thứ luật lệ để trói buộc và giam hãm con người cũng như loại trừ những thành phần yếu kém ra bên lề xã hội. Đối lại với thứ tôn giáo chỉ có cấm kỵ ấy, Ngài xóa bỏ mọi hàng rào ngăn cách để đến gần và bày tỏ sự cảm thông với những người bị đẩy ra bên lề xã hội. Ngài không thiết lập một tôn giáo, mà chỉ vạch ra một con đường. Đó là con đường của sự cảm thông. Ngài bị bắt phải vác thập giá và chịu treo lên thập giá vì con đường cảm thông ấy. Cốt lõi của “Đạo” như được Chúa Giêsu dạy và sống chính là sự cảm thông.
Về thập giá, Chúa Giêsu đã dạy: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ chính mình, vác lấy thập giá của mình và đi theo Ta” (Mt 16,4). “Vác lấy thập giá của mình”, nghĩa là thập giá đã có sẵn trong bản thân mỗi người. Chẳng có ai thoát khỏi thập giá cả. Giáo huấn của Chúa Giêsu xem ra chẳng khác gì lời dạy của Đức Phật: đời là bể khổ! Đã mang tiếng khóc vào đời là rước lấy nỗi khổ vào thân. Có nỗi khổ do hoàn cảnh và người khác gây ra cho mình đã đành mà cũng có vô số những nỗi khổ khác là do mình tự gây ra cho mình.

Khổ đau hay thập giá là một thực tại gắn liền với cuộc sống. Bên ngoài giáo đường hay các nghĩa trang, thỉnh thoảng dọc theo hai bên đường, tôi cũng bắt gặp một số thập giá. Phản ứng tự nhiên của tôi là phải lái xe cẩn thận và an toàn hơn. Đây là những thập giá được dựng lên tại những nơi xảy ra các tai nạn giao thông chết người. Xung quanh thập giá, người thân thường đặt một ít hoa. Thập giá được dựng lên để tưởng nhớ người chết và dĩ nhiên cũng để bày tỏ nỗi đau của người thân. Đó cũng là một lời cảnh cáo về bóng thập giá lúc nào cũng đang rình rập con người.
Ngày nay, tôi không còn dịp để đi lại “Tử lộ Bataan” và dĩ nhiên cũng chẳng có điều kiện để sang tận bên Trung Đông để nhìn thấy tận mắt con đường thập giá mà người dân Syria đã và đang đi qua hoặc nỗi khổ đau mới đây của các tín hữu Kitô tại Ai Cập hiện đang là mục tiêu của những vụ tấn công khủng bố của tổ chức “Quốc gia Hồi giáo”. Nhưng bên cạnh tôi, trước mắt tôi, xung quanh tôi, có ngày nào mà tôi không chứng kiến hoặc nghe nói đến thập giá và khổ đau của người đồng loại. Mỗi năm không chỉ có một “Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh” để đi lại con đường thập giá! Mỗi một ngày mới đến với tôi, dưới ánh nắng mặt trời, lúc nào cũng có bóng của thập giá. Thập giá luôn có mặt để không ngừng nhắc nhở tôi về sự cảm thông cần phải có đối với người đồng thoại. Trong một ý nghĩa nào đó, nếu thập giá có là con đường giải thoát là bởi vì khi bày tỏ sự cảm thông với người đồng loại tôi cũng cảm thấy thập giá và nỗi khổ đau của tôi được vơi đi. Bởi lẽ như thi sĩ Anh John Donne (1573-1631) đã nói: “Không ai là một hòn đảo, tự mình toàn vẹn trong chính mình...mỗi người là một mảnh của Đại lục...Cái chết của mỗi một người đều làm tôi bị mất mát đi, bởi vì tôi gắn liền với Nhân Loại. Và bởi thế, xin đừng bao giờ hỏi rằng chuông gọi hồn ai. Chuông gọi hồn anh đó!” (được nhà phê bình văn học Bùi Vĩnh Phúc trích dẫn trong “Trịnh Công Sơn”, Ngôn ngữ và những Ám ảnh Nghệ thuật, Nhà xuất bản Trẻ, 2011, trg 20)











Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét