Chu Thập
14.04.17

Nhưng không riêng tôi, tất cả những người tỵ nạn Việt Nam
nào chuẩn bị vào Hoa Kỳ hoặc đi định cư tại một số quốc gia khác cũng đều không
thể quên được địa danh Bataan. Bataan là một tỉnh nằm ở mạn Tây Bắc của Phi Luật
Tân. Trại tỵ nạn dành cho người Việt được Chính phủ Phi cho xây cất ở một nơi
đèo heo hút gió trong Tỉnh Bataan. Từ Thủ đô Manila vào trại này có khi phải mất cả một ngày đường. Cách trại Bataan khoảng chừng
30 cây số là một đoạn đường đèo. Từ xa, trước khi xe bò lên đèo, người ta đã thấy
trên đỉnh núi Samat một cây thánh giá lớn.
Đây chính là đài tưởng niệm mà năm 1966 Chính phủ Phi dưới thời cố Tổng thống Ferdinand
Marcos đã cho dựng lên để tưởng nhớ các chiến sĩ Phi và Mỹ đã bỏ mình trong cuộc
chiến chống lại quân đội Nhựt Bổn. Núi
Samat là nơi đã diễn ra trận đấu ác liệt năm 1942. Các binh sĩ Phi và Mỹ đã rút
về Bataan để tử thủ. Nhưng vào ngày 9 tháng Tư năm 1942, chỉ sau 3 tháng cầm cự,
vì kiệt sức và đói lả, 78.000 binh sĩ Phi và Mỹ đành phải đầu hàng quân đội Nhựt.
Liền ngày hôm sau, tất cả các tù binh Phi và Mỹ đều bị quân đội Nhựt bắt phải
đi bộ xuyên qua nhiều thành phố và làng mạc để đến một trạm xe lửa cách đó khoảng
hơn một trăm cây số để rồi từ đó được chuyển đến một trại giam. Dọc theo “Tử lộ Bataan”, vì bị bóc lột,
hành hạ và bỏ đói, đã có khoảng gần 20.000 tù binh người Phi và trên dưới 500
tù binh Mỹ ngã gục. Những người còn sống sót kể lại rằng trong suốt “Tử lộ
Bataan”, các tù binh bị hành hạ dưới nhiều hình thức khác nhau. Họ bị lột quần
áo và bắt ngồi giữa trời nắng. Bất cứ thứ gì họ có trên người, ngay cả những
chiếc răng vàng, cũng đều bị trấn lột. Bất cứ ai xin nước uống đều bị đem ra xử
bắn. Những người té xỉu hoặc đi không nổi đều bị xe cán lên cho chết. Ngay cả
những người còn khỏe mạnh cũng có thể bị các binh sĩ Nhựt dùng lưỡi lê để đâm
vào người. Trong Đệ Nhị Thế chiến, Phi Luật Tân thường được nhắc đến vì “Tử lộ
Bataan” và Nhựt Bổn cũng bị thế giới lên án vì tội ác chống lại nhân loại này.
Trong thời gian sống ở Phi Luật Tân, tôi rất thường đi lại
con đường này, nhứt là vào ngày được Kitô Giáo gọi là “Ngày thứ Sáu Tuần
Thánh”. Trong ngày này, các tín hữu Kitô đặc biệt tưởng niệm cái chết của Chúa
Giêsu. Theo một truyền thống đã có từ lâu trong Ki Tô Giáo, người ta thường đi
lại “Con đường Thập giá” của Chúa Giêsu, nghĩa là ôn lại và suy gẫm về cuộc
hành trình của Ngài từ lúc bị kết án cho đến khi bị đóng đinh và treo lên thập
giá. Các tín hữu Kitô thường gọi đó là “Đường thập giá” hay “Đường lên Núi Sọ”.
Lớn lên trong “nhà có đạo”, tôi đã thuộc
nằm lòng từng “chặng” trong con đường thập giá của Chúa Giêsu. Tuy nhiên trong
thời gian làm việc tại Phi Luật Tân, thay cho những giây phút tĩnh lặng hoặc
hòa tiếng cầu kinh với các tín hữu khác trong “Con đường Thập giá” của Chúa
Giêsu, tôi thường lái xe từ Manila vào trại tỵ nạn Bataan để dừng lại chiêm ngắm cây thánh giá lớn trên đỉnh núi
Samat và sống lại những nỗi cực hình mà các tù binh Phi và Mỹ đã trải qua trong
“Tử lộ Bataan”. Tôi không biết chính xác con đường thập giá của Chúa Giêsu dài
bao nhiêu, nhưng ở Phi Luật Tân, vào những tháng cao điểm của mùa hè là tháng
Ba hoặc tháng Tư, với cái nóng chảy mỡ, đi bộ trong tình trạng bị hành hạ, đánh
đập và đói khát trên một đoạn đường dài cả trăm cây số quả là một con đường thập
giá khủng khiếp!
Dọc theo con đường này, có lẽ chưa cảm nghiệm đủ nỗi đau
và cơn hấp hối của các tù binh Phi và Mỹ chăng, trong ngày thứ Sáu Tuần Thánh hằng
năm, nhiều người Phi cũng “xuống đường”, kẻ vác thập giá trên vai, người dùng
roi thiếc tua tủa quất vào người cho đến
khi máu chảy đầm đìa. Ở quốc gia hải đảo được xem là có đông tín hữu công giáo
nhứt Á Châu này, Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh quả là một ngày “chết”. Tất cả mọi
sinh hoạt đều ngừng lại: hàng quán đóng cửa, đường sá bình thường kẹt xe như mắc
cửi đều trống trơn, người dân tránh ra đường, có người không chỉ kiêng thịt, mà
còn kiêng cả tắm rửa nữa! Nhưng phải về
đến miền quê, nhứt là dọc theo “Tử lộ Bataan”, người ta mới thực sự nhìn thấy
thế nào là “đường thập giá” đối với người dân Phi. Giữa cái nắng chang chang của
mùa hè “đỏ lửa” theo đúng nghĩa, tôi không hiểu được tại sao có những người lại
có thể đi chân không vác thập giá xuyên
qua một đoạn đường dài. Nhưng cảnh tượng làm cho tôi cảm thấy ái ngại nhứt vẫn
là việc người ta dùng roi thiếc đánh vào người cho đến độ chảy máu lai láng để
gọi là “hãm xác và đánh tội”. Và dĩ nhiên khủng khiếp, khó tưởng tượng và cũng
khó chấp nhận hơn cả vẫn là cảnh nhiều
người, cũng tại một làng quê nằm dọc theo “Tử lộ Bataan”, tự nguyện chịu đóng
đinh để được treo lên thập giá như Chúa Giêsu.
Đây là những cảnh tượng thu hút khách ngoại quốc. Hàng
năm vẫn có nhiều người từ các nước đến Phi Luật Tân để xem những cảnh như thế.
Không rõ có phải xuất phát từ Mễ Tây Cơ là cứ địa của các nhà truyền giáo Tây
Ban Nha trước khi được gởi sang Phi Luật Tân không, các thực hành tôn giáo bình
dân này đã ăn sâu vào văn hóa của người công giáo ở quốc gia hải đảo này. Ăn
sâu đến độ mặc cho những cảnh cáo và cấm đoán của các nhà lãnh đạo tôn giáo, những
thực hành tôn giáo “ngoài luồng” này vẫn sống mạnh trong tâm thức của người dân
Phi, nhứt là người nghèo ở miền quê. Với những người dân quê nghèo này, mỗi Thứ
Sáu Tuần Thánh hằng năm là dịp để đánh tội, vác thập giá và chịu đóng đinh với
hy vọng được Thiên Chúa tha thứ và chúc lành hầu làm ăn thịnh đạt và thoát khỏi
cảnh nghèo. Nhìn cảnh tượng này, tôi thấy “tội nghiệp” cho Thiên Chúa. Người ta
vô tình tô vẽ cho Ngài bộ mặt của một người cha tàn nhẫn, vô nhân đạo, thích
thú nhìn thấy con cái mình chịu khốn khổ rồi mới chịu rộng tay ban phúc lành!
Mỗi năm, đi lại “Tử lộ Bataan” của các binh sĩ Phi và Mỹ
trong thời Đệ nhị Thế chiến, rồi nhìn cảnh “tự hành hạ” của người dân quê
nghèo, tôi không thể không suy nghĩ về ý nghĩa của thập giá trong cuộc sống của
chính mình. Thập giá là biểu tượng trọng tâm của Kitô Giáo. Ở đâu có Kitô Giáo,
ở đó có thập giá. Thời nào cũng thế, các chế độ cấm đạo nào cũng đều tìm cách tiêu
diệt thập giá. Ở đâu cũng vậy, muốn bắt một tín hữu Kitô chối đạo, người ta buộc
họ phải chà đạp hay bước qua thập giá.
Chúa Giêsu đã vác thập giá và đã bị đóng đinh vào thập
giá. Cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài được tuyên tín theo nhiều tín điều của
Kitô Giáo và được các nhà thần học suy nghĩ và nhìn dưới nhiều góc cạnh khác
nhau. Nhưng trong suy nghĩ riêng của mình, tôi nhận thấy một điều: Chúa Giêsu
không hề đi tìm thập giá và tự nguyện vác lấy thập giá để bị treo lên thập giá.
Cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài là hồi kết tất yếu của cuộc đối đầu giữa Ngài
và các nhà lãnh đạo Do Thái Giáo thời Ngài. Ngài chống lại thứ tôn giáo bày ra
đủ mọi thứ luật lệ để trói buộc và giam hãm con người cũng như loại trừ những
thành phần yếu kém ra bên lề xã hội. Đối lại với thứ tôn giáo chỉ có cấm kỵ ấy,
Ngài xóa bỏ mọi hàng rào ngăn cách để đến gần và bày tỏ sự cảm thông với những
người bị đẩy ra bên lề xã hội. Ngài không thiết lập một tôn giáo, mà chỉ vạch
ra một con đường. Đó là con đường của sự cảm thông. Ngài bị bắt phải vác thập
giá và chịu treo lên thập giá vì con đường cảm thông ấy. Cốt lõi của “Đạo” như
được Chúa Giêsu dạy và sống chính là sự cảm thông.
Về thập giá, Chúa Giêsu đã dạy: “Ai muốn theo Ta, hãy từ
bỏ chính mình, vác lấy thập giá của mình và đi theo Ta” (Mt 16,4). “Vác lấy thập
giá của mình”, nghĩa là thập giá đã có sẵn trong bản thân mỗi người. Chẳng có
ai thoát khỏi thập giá cả. Giáo huấn của Chúa Giêsu xem ra chẳng khác gì lời dạy
của Đức Phật: đời là bể khổ! Đã mang tiếng khóc vào đời là rước lấy nỗi khổ vào
thân. Có nỗi khổ do hoàn cảnh và người khác gây ra cho mình đã đành mà cũng có
vô số những nỗi khổ khác là do mình tự gây ra cho mình.
Khổ đau hay thập giá là một thực tại gắn liền với cuộc sống.
Bên ngoài giáo đường hay các nghĩa trang, thỉnh thoảng dọc theo hai bên đường,
tôi cũng bắt gặp một số thập giá. Phản ứng tự nhiên của tôi là phải lái xe cẩn
thận và an toàn hơn. Đây là những thập giá được dựng lên tại những nơi xảy ra
các tai nạn giao thông chết người. Xung quanh thập giá, người thân thường đặt một
ít hoa. Thập giá được dựng lên để tưởng nhớ người chết và dĩ nhiên cũng để bày
tỏ nỗi đau của người thân. Đó cũng là một lời cảnh cáo về bóng thập giá lúc nào
cũng đang rình rập con người.
Ngày nay, tôi không còn dịp để đi lại “Tử lộ Bataan” và
dĩ nhiên cũng chẳng có điều kiện để sang tận bên Trung Đông để nhìn thấy tận mắt
con đường thập giá mà người dân Syria đã và đang đi qua hoặc nỗi khổ đau mới
đây của các tín hữu Kitô tại Ai Cập hiện đang là mục tiêu của những vụ tấn công
khủng bố của tổ chức “Quốc gia Hồi giáo”. Nhưng bên cạnh tôi, trước mắt tôi,
xung quanh tôi, có ngày nào mà tôi không chứng kiến hoặc nghe nói đến thập giá
và khổ đau của người đồng loại. Mỗi năm không chỉ có một “Ngày Thứ Sáu Tuần
Thánh” để đi lại con đường thập giá! Mỗi một ngày mới đến với tôi, dưới ánh nắng
mặt trời, lúc nào cũng có bóng của thập giá. Thập giá luôn có mặt để không ngừng
nhắc nhở tôi về sự cảm thông cần phải có đối với người đồng thoại. Trong một ý
nghĩa nào đó, nếu thập giá có là con đường giải thoát là bởi vì khi bày tỏ sự cảm
thông với người đồng loại tôi cũng cảm thấy thập giá và nỗi khổ đau của tôi được
vơi đi. Bởi lẽ như thi sĩ Anh John Donne (1573-1631) đã nói: “Không ai là một
hòn đảo, tự mình toàn vẹn trong chính mình...mỗi người là một mảnh của Đại lục...Cái
chết của mỗi một người đều làm tôi bị mất mát đi, bởi vì tôi gắn liền với Nhân
Loại. Và bởi thế, xin đừng bao giờ hỏi rằng chuông gọi hồn ai. Chuông gọi hồn
anh đó!” (được nhà phê bình văn học Bùi Vĩnh Phúc trích dẫn trong “Trịnh Công
Sơn”, Ngôn ngữ và những Ám ảnh Nghệ thuật, Nhà xuất bản Trẻ, 2011, trg 20)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét