Chu Thập
03.09.13
Sống trong một xã
hội dân chủ và tự do, mỗi lần có bầu cử, tôi đều đi bỏ phiếu với tất cả ý thức
trách nhiệm của một công dân. Tôi tin tưởng rằng lá phiếu của tôi, dù chỉ là một
giọt nước trong biển cử tri, cũng thực sự góp phần củng cố nền dân chủ, phát
huy những giá trị nhân bản vốn làm nền tảng cho một nền dân chủ đích thực. Tôi
rất sung sướng và hãnh diện được thi hành nghĩa vụ công dân của tôi. Tôi luôn
trân trọng lá phiếu của mình, bởi vì tôi đã đánh đổi cả mạng sống để được “cầm”
nó trong tay.
Gần cuối thập niên
1960, khi tổng thống Ngô Đình Diệm thành lập nền Đệ Nhứt Cộng Hòa, tôi đang học
tiểu học. Tuy chưa có một khái niệm nào về dân chủ và tự do, lũ trẻ chúng tôi
cũng thuộc nằm lòng bài hát: “Rủ nhau đi bầu, rủ nhau đi bầu. Tay cầm lá phiếu
tự do. Phân vân, phân vân…không biết…Bầu
cho ông nào, bầu cho ông nào”. Đây là bài hát mà các ty thông tin ở các địa
phương cho quảng bá trên các loa phóng thanh để kêu gọi dân chúng đi bầu Quốc Hội
Lập Hiến.
Mãi cho đến năm
1967, khi trung tướng Nguyễn văn Thiệu thành lập nền Đệ Nhị Cộng Hòa, tôi mới
được vinh dự lần đầu tiên thi hành nghĩa vụ công dân của mình qua lá phiếu. Mặc
dù ông Nguyễn văn Thiệu chỉ đắc cử với 38 phần trăm số phiếu, tôi tin chắc rằng
lá phiếu của tôi đã góp phần đưa ông lên làm tổng thống. Đến năm 1971, Việt Nam
Cộng Hòa lại cho tổ chức bầu cử tổng thống một lần nữa. Tôi vẫn còn nhớ rõ, đến
giờ chót hai ứng cử viên Nguyễn Cao Kỳ và Dương văn Minh đều bỏ cuộc, cho nên chỉ
còn lại ông Nguyễn văn Thiệu “độc diễn” một mình. Dĩ nhiên, vì không có một chọn
lựa nào khác cho nên tôi đã bỏ phiếu cho ông Nguyễn văn Thiệu. Năm đó, ông Thiệu
đã đắc cử tổng thống với 94 phần trăm số phiếu. Đó là lần cuối cùng tôi đã xử dụng
lá phiếu của mình với tất cả tự do và trách nhiệm. Dù cho lịch sử có phán đoán
như thế nào về nền Đệ Nhị Cộng Hòa đi nữa, ít nhứt trong giai đoạn này, tôi vẫn
thấy mình đã sống như một công dân có tự do và thi hành nghĩa vụ công dân với tất
cả trách nhiệm của mình.
Việt cộng đến, tôi
mất quyền công dân. Cũng may, vì không được cấp “chứng minh nhân dân” cho nên
tôi không phải mất giờ đi đến các thùng phiếu và tốn công “bỏ” (=vứt bỏ) lá phiếu
của mình vào những cái thùng rác rưởi thối tha ấy nữa. Một ông thi sĩ bút tre nào đó đã diễn tả
đúng tâm trạng của người dân của cộng hòa xã hội chủ nghĩa, dân chủ gặp triệu lần
các nước tư bản: “Ta đi bầu cử tự do. Tìm người xứng đáng mà cho vào hòm”. Người dân miền Trung của tôi hay người miền
Nam, hễ nói đến “hòm” là liên tưởng đến sự chết. Do đó, mỗi lần có bầu cử trong
đó kết quả lúc nào cũng đã có sẵn và tỷ lệ đắc cử của các ứng cử viên “độc diễn”
của Đảng Cộng Sản lúc nào cũng lên đến 99.9999… phần trăm, là mỗi lần người ta
đi “bỏ”, nghĩa là “ném” lá phiếu vào “hòm” để tống táng nền dân chủ và tự do.
Cuối cùng, cũng
như hàng triệu người Việt Nam hồi năm 1954 và sau 1975, tôi đã đi bỏ phiếu bằng
chân và bằng chính mạng sống của mình. Đi tỵ nạn chính là bỏ phiếu cho dân chủ
và tự do. Chính vì thế mà khi đi định cư, tôi không dại gì chọn một chế độ độc
tài để đâm đầu vào. Tôi đã chọn một đất nước có dân chủ và tự do thực sự. Song
song với việc hội nhập vào xã hội mới, tôi cũng thấy mình cần phải học hỏi rất
nhiều về thế nào là dân chủ và tự do. Tôi tin chắc rằng đàng sau bất cứ một nền
dân chủ nào cũng đều có những giá trị nhân bản đích thực giúp tôi sống cho ra
người trưởng thành, tử tế và có “văn hóa” hơn.
Quả thực có một nền
văn hóa gọi là “văn hóa dân chủ”. “Văn
hóa ở đây, theo bà Diane Ravitch (người đã từng làm phụ tá bộ trưởng giáo dục
Hoa kỳ) không nói đến nghệ thuật, văn học hay âm nhạc mà nên hiểu theo nghĩa là
“cách ứng xử, thói quen và các quy phạm nhằm xác định khả năng tự quản của người
dân.” (x.Dân chủ là gì, trên trang mạng của Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt nam,
tháng 9/1998).
Theo bà Ravitch: “Hệ thống chính trị độc đoán khuyến khích một
nền văn hóa thụ động và lãnh cảm. Chế độ đó tìm cách tạo ra một tầng lớp công
dân dễ bảo và dễ quy phục. Ngược lại, nền văn hóa công dân của một xã hội dân
chủ được xây dựng bởi các hoạt động tự do lựa chọn của các cá nhân và các tổ chức.
Các công dân trong một xã hội tự do được tự theo đuổi các ham muốn của họ, được
thực hiện các quyền và tự chịu trách nhiệm đối với cuộc sống của họ. Họ tự quyết
định cho mình mọi vấn đề từ nơi làm việc, cái họ muốn làm, nơi họ sinh sống, có
tham gia vào các đảng chính trị hay không, cái họ muốn đọc…Đó là các quyết định
mang tính cá nhân chứ không phải là chính trị.” (bài đã dẫn).
Sống theo văn hóa
dân chủ, tôi cũng hiểu được rằng dân chủ là một hệ thống trong đó mọi người
công dân đều được tự do đưa ra các quyết định chính trị theo nguyên tắc đa số.
Nhưng theo giải thích của Tòa Đại Sứ Mỹ tại Việt Nam, “nguyên tắc đa số cũng chưa phải là dân chủ: ví dụ, không ai có thể gọi
một hệ thống là công bằng hoặc bình đẳng nếu hệ thống đó chấp nhận cho 51 phần
trăm dân số nhân danh đa số để đàn áp 49 phần trăm dân số còn lại cả. Trong một
xã hội dân chủ, nguyên tắc đa số phải được ràng buộc với sự bảo đảm cho các quyền
con người của cá nhân, các quyền này, đến lượt nó, lại đóng vai trò bảo vệ quyền
lợi cho các nhóm thiểu số như các dân tộc thiểu số, các nhóm tôn giáo hay chính
trị hoặc đơn giản là những người thua cuộc trong cuộc tranh luận về một vấn đề
lập pháp nào đó.”
Nhìn lại những diễn
biến mới đây tại Ai Cập, tôi thấy nhiều người đã hiểu và áp dụng sai các nguyên
tắc dân chủ. Sau khi lật đổ nhà độc tài Hosni Mubarak, lần đầu tiên sau gần 40
năm, người dân nước này đã thực sự tham gia vào một cuộc bầu cử tự do. Theo kết
quả của cuộc bầu cử được xem là dân chủ và công bằng này, một thành viên của tổ
chức tôn giáo có tên là Huynh đệ Hồi giáo lên làm tổng thống. Cả thế giới tự do
đều không hết lời để ca ngợi tiến trình dân chủ tại Ai Cập. Nhưng không đầy một
năm sau, tổng thống Mohamed Morsi đã hủy bỏ một nguyên tắc nền tảng của dân chủ là đa nguyên,
nghĩa là một chính phủ đa số cũng phải
tôn trọng quyền của nhóm thiểu số. Quốc hội do tổ chức Huynh đệ Hồi giáo kiểm
soát đã soạn thảo một Hiến Pháp có chủ trương “hồi giáo hóa” đất nước, áp đặt
luật hồi giáo Sharia cho các nhóm thiểu số khác, đặc biệt là các Giáo hội Kitô
vốn chiếm đến 10 phần trăm dân số. Đây là lý do chính khiến người dân Ai Cập một
lần nữa xuống đường và cuối cùng quân đội đã phải can thiệp để truất phế ông
Morsi chỉ vì ông đã không tôn trọng những nguyên tắc nền tảng của dân chủ.
Xét cho cùng, văn
hóa dân chủ cũng chính là văn hóa khoan nhượng. Khoan nhượng, hiểu một cách đơn
giản nhứt, là biết chấp nhận và tôn trọng những khác biệt của người khác. Đây
là bài học mà tôi đã đọc được trên trang mạng của Bộ Di Trú Úc. Theo lời kêu gọi
được nhắn gởi đến những người di dân, Bộ Di Trúc Úc viết rằng Úc Đại Lợi đã học
được rất nhiều điều từ những làn sóng nhập cư vốn đã làm cho văn hóa nước này
thêm phong phú. Một trong những điều đó là giá trị của sự khác biệt.
Bộ Di Trú Úc khẳng
định: văn hóa Úc là một văn hóa khoan nhượng. Khoan nhượng là một thái độ nền tảng
đối với người dân Úc, bởi vì quốc gia này ngày càng mang bộ mặt đa văn hóa. Có
khoảng một nửa dân số Úc hoặc sinh ở một nước khác hoặc có ít nhứt một người
cha hay một người mẹ sinh ở nước ngoài.
Chính vì thế mà Bộ
Di Trú Úc kêu gọi: “Sự kiện Úc Đại Lợi là
một xã hội khoan nhượng dĩ nhiên không có nghĩa là mọi sự đều sẽ giống như lúc
bạn còn ở trong nước bạn. Bạn cần phải bỏ giờ ra để giúp cho gia đình bạn thích
nghi với những cách sống khác mà bạn sẽ gặp tại Úc Đại Lợi”.
Có lẽ sau những
năm tháng sống dưới chế độ cộng sản toàn trị, trong đó mọi thứ quyền tự do căn
bản, nhứt là quyền tự do ngôn luận, người Việt tỵ nạn nào cũng hiểu được thế
nào là khoan nhượng. Thật vậy, không gì tàn bạo và độc ác bằng cấm người khác
không được suy nghĩ bằng chính cái đầu của họ. Văn hào Pháp Voltaire (1694-1778)
đã để lại một câu nói đáng suy nghĩ: “Tôi
không đồng ý với những gì bạn nói, nhưng tôi sẽ bảo vệ cho đến chết quyền được
phát biểu của bạn”. Ông cũng đã để lại một lời cầu nguyện đầy ý nghĩa:
“Lạy
Thượng Đế, Ngài đã không ban cho chúng con một trái tim để chúng con oán thù
nhau. Ngài đã không ban cho chúng con những bàn tay để đấm đá nhau. Xin làm cho
chúng con biết giúp đỡ nhau để giảm bớt gánh nặng của cuộc sống cơ cực và chóng
qua này. Xin đừng để cho những khác biệt giữa quần áo che đậy thân xác hèn yếu
của chúng con, giữa những ngôn ngữ bất toàn của chúng con, giữa những phong tục
dị hợm của chúng con, giữa những quan niệm ngu dốt của chúng con, giữa tất cả
những địa vị tuy khác biệt dưới mắt chúng con nhưng lại giống nhau trước mặt
Chúa, giữa những khác biệt không đáng kể….xin đừng để cho những dị biệt ấy trở
thành dấu chỉ của hận thù, bách hại lẫn nhau giữa chúng con.
Xin
cho những ai thắp lên ngọn nến giữa ban ngày để thờ phượng Chúa cũng biết tỏ ra
khoan nhượng với những ai chỉ có ánh sáng mặt trời của Chúa mà thôi. Xin cho những
ai mặc áo trắng để thể hiện tình yêu đối với Chúa không khinh dể những ai bảo rằng
họ phải yêu mến Chúa bằng áo đen. Xin cho những ai dùng ngôn ngữ xưa để tỏ lòng
yêu mến Chúa cũng không khinh dể những người xử dụng ngôn ngữ hiện đại”.
Nếu có một nơi con
người cần thực thi lòng khoan nhượng đối với người khác nhiều hơn cả hẳn phải
là tôn giáo. Ở cuối thế kỷ 20, thế giới đã chứng kiến sự sụp đổ của các chế độ
độc tài cộng sản. Tại rất nhiều nơi trên thế giới, các ý thức hệ toàn trị đã được
thay thế bằng lòng khoan nhượng. Nhưng bước vào thế kỷ 21, hầu như ngày nào
chúng ta cũng phải đón nhận tin tức về những cuộc tàn sát mà động lực là thái độ
bất khoan nhượng tôn giáo: người ta nhân danh tôn giáo và thượng đế của mình để
loại trừ và sát hại người khác.
Tôi là người có niềm
tin tôn giáo. Cũng như Đức Đạt Lai Lạt Ma, tôi tin rằng “tôn giáo tốt nhứt là tôn giáo giúp tôi nên một người tốt hơn”. Và
nên một người tốt hơn là biết “cảm thông
hơn, nhạy cảm hơn, nhân đạo hơn, siêu thoát hơn, trách nhiệm hơn, đạo đức hơn”.
Ngày mai thứ Bảy
7/9/2013 này, tôi sẽ đi bỏ phiếu để bầu Quốc hội liên bang. Dù có cân nhắc đến
đâu, có lẽ tôi cũng không chọn mặt gởi vàng cho đúng người như tôi mong muốn. Rất
có thể sẽ có rất nhiều vị dân cử không có cùng chính kiến, tôn giáo và nhứt là một
hệ thống giá trị đạo đức như tôi. Nhưng đó chính là sự phong phú của một xã hội
dân chủ. Xã hội ấy luôn mời gọi tôi thực thi tinh thần khoan nhượng. Chính khi
đưa cao lá phiếu lên để trân trọng bỏ vào thùng phiếu là lúc tôi cam kết sống
cho ra người khoan nhượng hơn, cảm thông hơn, tử tế hơn và nhân đạo hơn vậy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét