Thứ Hai, 3 tháng 4, 2017

Ái Nhĩ Lan: mồ chôn tập thể thơ nhi!



31.03.17

Tháng Hai 2017 vừa qua, người ta đã  khám phá  những  mồ chôn tập thể các thơ nhi trong một hầm cầu vệ sinh tại Thành phố Tuam, miền Tây Ái Nhĩ Lan. Đây là kết quả của một cuộc điều tra   về những cáo buộc  liên quan đến những lạm dụng trong các dòng nữ tại quốc gia có đa số dân theo Công giáo này. Cuộc khai quật đã diễn ra tại một địa điểm đã từng là một trung tâm dành cho những thiếu nữ mang thai ngoài ý muốn do các nữ tu điều khiển. Đây là trung tâm do tổ chức từ thiện của Giáo hội Công giáo có tên là “Bons Secours” (Cứu trợ) tài trợ. Ngôi mộ tập thể được khám phá trong hầm cầu vệ sinh có chứa đựng tử thi của trên dưới  800 thơ nhi.
Năm 2014,  một nhà đạo diễn đã muốn thực hiện một cuốn phim tài liệu về vấn đề này. Nhưng một đại diện của tổ chức “Bons Secours” khẳng định rằng không hề có bất cứ một ngôi mồ tập thể nào như thế cả.  Đại diện của “Bons Secours” còn nói rằng ngay cả cảnh sát địa phương cũng đã đến tận nơi để điều tra và họ cũng chỉ tìm thấy một vài nắm xương của một số nạn nhân của nạn đói đã từng xảy ra trong vùng. Tuy nhiên lời giải thích này của tổ chức “Bons Secours” đã không thuyết phục được Ủy ban được Chính phủ Ái Nhĩ Lan thành lập để điều tra về những vụ lạm dụng xảy ra trong các cơ sở công giáo.
Đối với nhiều người Ái Nhĩ Lan, việc khám phá những mồ chôn  tập thể  các thơ nhi tại Tuam đã khơi dậy những kỷ niệm đau buồn về cách đối xử đối với các thiếu nữ có mang ngoài hôn nhân.
Năm 1961, các nữ tu cho đã đóng cửa trung tâm dành cho các thiếu nữ có mang ngoài ý muốn tại Tuam. Nhưng mãi cho đến năm 1988, Louise Gallagher là một trong số rất nhiều thiếu nữ bất hạnh vẫn còn sống trong một trung tâm tương tự như thế. Khi hay tin ngôi mồ tập thể có chứa đựng xương cốt của 800 hài nhi được khám phá tại Tuam, người thiếu phụ 44 tuổi này nói rằng chị sẽ không bao giờ quên được những gì đã diễn ra trong trung tâm nơi chị đã từng tá túc.
Là một thiếu nữ sống tại một miền quê Ái Nhĩ Lan, năm 16 tuổi Louise lâm cảnh “không chồng mà chửa”. Vào thời điểm đó, đối với Giáo hội Công giáo và xã hội Ái Nhĩ Lan nói chung, “không chồng mà chửa” là một vết nhơ không thể tha thứ được.  Với sự dàn xếp giữa mẹ cô, một bác sĩ ở địa phương và “Cura” (Chăm sóc), một tổ chức của Giáo hội Công giáo chuyên đối phó với nạn chữa hoang, Louise  đã được gởi đến một trung tâm có tên là “Ngôi nhà của Mẹ và Con” (Mother and Baby Home) do các nữ tu tại Thành phố Dunboyne, Quận Meath County, điều khiển. Cô đã sống ở đó 2 tháng. Cô cho biết khi cô đặt chân đến đó thì trung tâm đã đầy người. Vì không có đủ giường, cô đã phải ngủ trên sàn nhà.
Trung tâm “Nhà của Mẹ và Con”, tuy do các nữ tu công giáo điều khiển, nhưng vẫn nhận được sự tài trợ của Chính phủ Ái Nhĩ Lan. Để tránh lời ra tiếng vào và nhất là sự nguyền rủa của cộng đồng, các bậc phụ huynh thường đem những cô con gái bất hạnh của mình đến gởi ở đó.
Những người mẹ trẻ bị đối xử tàn tệ bao nhiêu thì những đứa con của họ càng khốn khổ bấy nhiêu. Và nỗi đau của những người mẹ bất hạnh và những đứa con không được Giáo hội và xã hội thừa nhận ấy đã kéo dài trong cả một thế kỷ tại Ái Nhĩ Lan. Vì thiếu dinh dưỡng cũng như không được chăm sóc đầy đủ, đã có hàng ngàn thơ nhi qua đời. Người ta mang xác của chúng vùi xuống những ngôi mồ tập thể trong những mảnh đất do Giáo hội Công giáo sở hữu.
Nhiều thiếu nữ được gởi đến các trung tâm của Giáo hội khi còn là vị thành niên. Bị cưỡng bách phải trao con của mình cho các cha mẹ nuôi, họ phải ký giấy tờ trước mắt các nữ tu và nhân viên xã hội.
Bà Louise kể lại thời gian sống trong trung tâm “Nhà của Mẹ và Con” tại Thành phố Dunboyne. “Họ dùng chúng tôi để làm tiền” bằng nhiều việc làm khác nhau. Ngay cả khi con của những cô gái này bị bắt mang đi, các nữ tu xem đây như một thứ ân huệ và các cô gái phải tỏ ra biết ơn. Riêng về việc “kinh doanh từ thiện”, bà Louise kể lại rằng các nữ tu thương lượng với chính phủ để “ngã giá” về số phận của những cô gái lỡ thì này. Một cô gái nằm cùng phòng với bà Louise cho biết cha mẹ cô đã phải tặng một số tiền lớn cho các nữ tu và những cặp vợ chồng nào nhận con nuôi cũng phải làm như thế.
Câu chuyện của bà Louise gợi lại vô số những thảm cảnh mà các thiếu nữ và thiếu phụ đã phải trải qua trong các trung tâm do Giáo hội Công giáo điều khiển. Theo ước tính có đến 30.000 phụ nữ và thiếu nữ vị thành niên đã bị giam giữ trong các trung tâm như thế vì nhiều lý do khác nhau, nhất là vì mang thai ngoài hôn nhân. Họ đã bị cưỡng bách phải làm việc dài giờ trong những điều kiện tồi tệ mà không nhận được một  đồng lương nào. Đây là một sự bóc lột sức lao động tàn nhẫn chẳng khác nào thời kỳ nô lệ.
Một số phụ nữ đã phải lao động như thế ngay từ khi bị đẩy vào các trung tâm này. Rất nhiều phụ nữ khác, một khi đã rời khỏi các trường dạy nghề, liền được gởi đến các cơ sở làm ăn của các nữ tu, mà giặt ủi là điển hình nhất.
Một trong những cơ sở giặt ủi được chú ý tới nhiều nhất là xưởng giặt ủi “Magdalene Laundries”. Năm 2011, một nhóm bênh vực cho những người còn sống sót từ xưởng giặt ủi này đã đệ đơn tố cáo lên Ủy ban chống Tra tấn  của Liên Hiệp Quốc (UNCAT: United Nations Committee Against Torture). Trong một phiên xử sau đó, Chính phủ Ái Nhĩ Lan đã biện hộ cho các xưởng giặt ủi này với lý do là hầu hết các phụ nữ làm việc tại các cơ sở này đều là những người tình nguyện hoặc được sự đồng ý của cha mẹ họ. Ủy ban chống tra tấn của Liên Hiệp Quốc đã yêu cầu cho mở một cuộc điều tra toàn diện về những xưởng giặt ủi này. Năm 2013, sau cuộc điều tra, Ủy ban Chống Tra tấn của Liên Hiệp Quốc đã cho công bố một bản phúc trình đầy đủ về những lạm dụng và bất công xảy ra trong các xưởng giặt này. Một tổ chức đại diện cho các nạn nhân đã yêu cầu chính phủ Ái Nhĩ Lan xin lỗi các nạn nhân. Nhưng Thủ tướng Enda Kenny đã từ chối lời yêu cầu này.
Các nạn nhân của những xưởng giặt ủi này nói rằng họ đã phải làm việc như những người nô lệ. Nhiều người Ái Nhĩ Lan, bất mãn và mất niềm tin đối với một Giáo hội Công giáo đã bị hoen ố vì các hành động ấu dâm của hàng giáo sĩ, đã tổ chức những cuộc xuống đường để bày tỏ sự nâng đỡ và ủng hộ đối với các nạn nhân. Báo chí cũng tiếp tay phanh phui và lên án các hành động lạm dụng trong các xưởng giặt ủi. Thủ tướng Kenny đã phải lên tiếng xin lỗi và nhận một phần trách nhiệm trong việc đối xử tàn tệ đối với các phụ nữ trong các xưởng giặt ủi này. Tuy nhiên, 3 năm đã trôi qua, một sự đền bù cân xứng cho các phụ nữ nạn nhân trong các xưởng giặt ủi này vẫn chưa được thực hiện như chính phủ đã hứa.
Về phần mình, mặc dù ngôi mồ tập thể các thơ nhi tại Tuam đã được khám phá, các hành vi lạm dụng đã được phơi bày ra ánh sáng và mặc dù Bộ Y Tế Ái Nhĩ Lan  đã có một lập trường cứng rắn về vấn đề này, các dòng nữ tu Ái Nhĩ Lan vẫn chưa chịu đền bù  cân xứng cho những người phụ nữ có con bị chết hay bị mang đi để được nhận làm con nuôi. Theo ước tính, số tiền bồi thường vì những hành vi lạm dụng này có thể lên đến khoảng 1.6 tỷ Mỹ kim. Nhưng cho tới nay, số tiền bồi thường do các dòng nữ chấp nhận đóng góp chỉ mới được khoảng 207 triệu Mỹ kim. Theo một dân biểu độc lập trong Quốc hội, cả Giáo hội Công giáo  lẫn chính phủ Ái Nhĩ Lan đều tìm cách phủi tay trong vấn đề bồi thường.
Ngoài việc lẩn tránh trách nhiệm phải bồi thường cho cân xứng, các dòng nữ cũng bị tố cáo đã tìm cách bịt miệng những ai dám lên tiếng về những vụ lạm dụng trong các trung tâm dành cho các cô nhi và con cái của những người mẹ “không chồng mà chửa”.
Tom Wall, một cô nhi xuất thân từ một trung tâm dành cho các cô gái mang thai ngoài ý muốn, đã được gởi đến một trường dạy nghề do dòng “Các Sư huynh Công giáo” (Christian Brothers) điều khiển. Tom Wall được gởi đến trung tâm dạy nghề này sau khi một thẩm phán đã ký lệnh giao cậu cho Giáo hội chăm sóc. Tom Wall đã ở trong trung tâm dạy nghề này từ năm 1952 đến năm 1965. Đó là năm cậu được 16 tuổi. Trong suốt 13 năm này, Tom Wall cho biết cậu đã bị lạm dụng tình dục và đánh đập tàn nhẫn. Nay Tom Wall đã viết một cuốn sách về giai đoạn này và hiện đang mở một trận chiến pháp lý với “Các Sư huynh Công giáo”, vốn đang tìm cách che đậy các vụ lạm dụng. Tom Wall cho biết: năm 1973, các “Sư huynh Công giáo” đã rời khỏi Thành phố Glin, nơi có trung tâm dạy nghề được Tom Wall theo học. Anh đã được Sư huynh Bề trên tại đây yêu cầu phải đốt hết tất cả mọi tài liệu mà ông đã trao cho anh. Dù vậy, Sư huynh này cũng nói rằng anh có thể giữ lại tài liệu nào anh thấy cần giữ. Năm 2015, Tom Wall đã trao xấp tài liệu anh còn giữ cho Đại học Limerick.
Tom Wall là người thiếu niên cuối cùng được gởi đến trường dạy nghề của các Sư huynh Công giáo. Nhưng cuộc chiến pháp lý giữa anh và các tu sĩ này hiện vẫn chưa kết thúc.
Các Sư huynh Công giáo khẳng định rằng hồ sơ và thư từ của thân nhân gởi cho các thiếu niên thuộc quyền sở hữu của họ và Giáo hội Công giáo chứ không thuộc về văn khố của các đại học. Đây là thái độ mà Tom Wall, nay đã 67 tuổi, không thể hiểu được: một mặt các Sư huynh Công giáo bị tố cáo đã có những hành vi bạo hành và lạm dụng tình dục đối với trẻ em, mặt khác họ lại đòi quyền sở hữu những tài liệu ghi lại cuộc sống của những trẻ em này!
Giáo hội Công giáo tại Ái Nhĩ Lan mà các dòng nữ, các Sư huynh Công giáo cũng như hàng giáo sĩ là những thành phần cốt cán,  là một trong những tổ chức tôn giáo đang phải đối phó với rất nhiều tai tiếng về lạm dụng tình dục đối với trẻ em, nhưng lại tỏ ra rất ít dấu hiệu cho thấy có sự hối tiếc. Cùng với việc khám phá mồ chôn tập thể thơ nhi tại Tuam, những tai tiếng về lạm dụng tình dục trẻ em của các Sư huynh Công giáo và nhất là hàng giáo sĩ Ái Nhĩ Lan đã làm rung chuyển Giáo Hội có tỷ lệ công giáo lớn nhất tại Âu Châu. Và dĩ nhiên, không đâu niềm tin của các tín hữu đối với Giáo hội bị xói mòn cho bằng tại Ái Nhĩ Lan. Mồ chôn tập thể 800 thơ nhi tại Tuam cũng chính là mồ chôn niềm tin của họ.

(nguồn: http://www.aljazeera.com/indepth/features/2017/03/mass-graves-ireland-long-history-church-abuse)




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét