Chu Thập
24.09.13
Mỗi ngày, mở truyền hình hay vào Internet, tôi
thấy hầu hết các tin “sốt dẻo” đều qui về hai loại: chiến tranh và thiên tai.
Chiến tranh đương nhiên là chuyện mà chỉ có con người mới gây ra cho nhau. Còn
thiên tai thì người ta bảo do “Ông Trời” làm ra. Quả thực, có những tai họa nằm
ngoài sự tác động và nhứt là kiểm soát của con người. Cho tới nay, dù khoa học
có tiến bộ đến đâu, thế giới vẫn chưa có đủ khả năng để dự đoán hoặc phòng ngừa
động đất, sóng thần hay cuồng phong.
Nhưng nhờ tiến bộ khoa học mà thế giới ngày
càng ý thức hơn rằng con người cũng
góp phần tự tạo ra tai họa cho mình. Trái đất ngày càng hâm nóng là chuyện do
con người làm ra. Môi trường sống bị ô nhiễm gây ra bao nhiêu nguy hại cho sức
khỏe là chuyện đương nhiên do chính con người tạo ra. Con người cũng phải chịu
một phần trách nhiệm về lũ lụt hay tình trạng sa mạc hóa tại rất nhiều nơi…Thiên tai có khi cũng là nhân họa. Những vụ nổ lò nguyên tử tại Chernobyl, Ukraine năm 1986 hay Fukushima, Nhật
Bản năm 2011 là điển hình của những “nhân họa” trong lịch sử nhân loại. Con người
vẫn luôn nghĩ mình có khả năng thống trị thiên nhiên. Kỳ thực, sức người thì
lúc nào cũng có hạn. Trong những nỗ lực tìm hiểu và thống trị thiên nhiên, cứ
vượt qua được một bức tường thì con người lại thấy mình phải đứng trước một bức tường khác.
Có lẽ do tuổi già đang sồng sộc kéo đến, tôi thường suy gẫm về những giới hạn
và tính có cùng của con người.
Tôi có ý nghĩ ấy khi đọc lại truyện ngắn “Tình
Bậu Muốn Thôi” trong tập truyện “Hương Rừng Cà Mau” của nhà văn Sơn Nam. Trong
truyện ngắn này, tác giả giải thích về nguồn gốc của câu ca dạo Nam Bộ
“Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra. Bậu ra, bậu lấy ăn mày. Nước sông gạo chợ,
ngày rày khỏi lo”. Theo câu chuyện được nhà văn Sơn Nam ghi lại, có một anh nọ
làm ăn khá giả cho nên cưới đến hai vợ. “Ruộng
nương năm nào cũng trúng mùa, anh ta cất nhà ngói, mướn thợ về nhà vẽ một tấm
biển thếp vàng treo trước cửa, trên biển có vỏn vẹn hai chữ Nho: “Nhơn lực”.
Anh muốn khoe rằng mình làm giàu là do tài năng sức lực, chớ đâu phải do Trời
Phật phù hộ. Thấy vậy cô vợ bé không vừa ý cho nên mới cãi lại: “Làm vậy là phạm
thượng”. Anh chồng trợn mắt: “Nhà này là của tôi, tôi làm đổ mồ hội xót con mắt
mới tạo lập được. Ai giúp tôi đâu? Tôi là người, sức người là Nhơn Lực”.
Chán cảnh chồng chung, lại phải sống với một
ông chồng ngạo mạn, cho nên một hôm, lúc chồng đi vắng, người vợ bé mới bắc
thang lên, đứng sát tấm biển rồi dùng son mà gạch thêm hai lằn ngang trên đầu
chữ Nhơn. Từ “Nhơn Lực”, tấm biển biến thành “Thiên Lực”.
Chồng về thấy tấm biển đã bị sửa đổi, liền hạch
hỏi cô vợ bé. Cô nhận trách nhiệm về hành động của mình. Người chồng liền tống
cổ cô vợ bé ra khỏi nhà. Nhưng trước khi ra đi, cô đốt nhang trước bàn thờ rồi
giải thích rằng cô là người tin Thiên Lực và xin Trời Phật phù hộ cho cô. Cô hứa
sẽ phụng thờ một người chồng biết trọng nhân nghĩa hơn. Và người đó là người đầu
tiên mà cô gặp khi đi thẳng về hướng Đông.
Quả như người thiếu phụ mong ước, đi về hướng Đông chưa được một ngày đàng thì cô
gặp một “ông lão” đang ngồi câu cá bên một bờ ao. Cô liền tin ngay rằng đây là
người mà Trời Phật đã gởi đến cho cô. Được hỏi chuyện, “ông lão” mới cho biết
mình chỉ mới khoảng năm mươi tuổi, tứ cố vô thân, không vợ con cho nên thân
hình mới xơ xác như thế. Người đàn ông cũng cho biết đi câu là để giải khoây.
Được ít nhiều là tùy Trời Phật.
Nghe thế, người thiếu phụ lại càng xác tín rằng
đây mới thực sự là mẫu người lý tưởng của mình. Hai bên liền gá nghĩa với nhau và sống
trong túp lều nghèo nàn của người câu cá.
Thực ra, người đàn ông này đã từng là một bạch diện thư sinh, nhưng trời chưa
cho đỗ đạt.
Ngày ngày người vợ đi câu cá để nuôi chồng ăn
học. Về phần mình, nhờ siêng năng học hành cho nên người chồng thi
đậu. Lễ vinh quy được cử hành long trọng, “võng anh đi trước, võng nàng theo
sau”.
Trong khoảng thời gian dài trôi qua, người chồng
cũ của cô vợ lâm cảnh túng bấn. Ba năm liên tiếp, mùa màng thất bát khiến anh
ta phá sản.
Khi được quân sĩ khiêng võng, mang lọng sắp
hàng đưa hai vợ chồng tân cử về làng, người vợ xin được ghé vào làng để gặp người
chồng cũ và khuyên đôi điều. Cô nói với người chồng cũ: “Tôi muốn khuyên ông bớt ngạo mạn. Con người sanh ra trong cõi đời này
phải kính nể Trời Phật, đừng ỷ sức ỷ tài mà nói những lời vô lễ”. Người chồng
cũ cúi đầu nhận lỗi: “Tôi trót dại dột,
coi thường Thiên Lực nên Trời Phật trừng phạt tôi rồi.” (x. Sơn Nam, Hương
rừng Cà Mau, nxb Trẻ, tập 3 “Tình Bậu Muốn
Thôi”).
Đọc truyện ngắn trên đây của nhà văn Sơn Nam, tôi lại nhớ
đến lời dạy của các bậc thánh hiền của Á Đông. Có lẽ người Việt nào cũng thuộc
lòng câu “Thuận thiên giả tồn, nghịch
thiên giả vong” (thuận theo trời thì sống, còn nghịch với trời thì chết).
Trong cuốn sách “Trang Tử và Nam Hoa Kinh”, tác giả Nguyễn
Hiến Lê có dành một chương để nói về cách dưỡng sinh theo triết lý của Trang Tử. Theo ông, qui tắc đầu
tiên của dưỡng sinh là “thuận thiên”. Một phần lớn triết lý của Trang Tử được
xây dựng trên hai chữ “thuận thiên”này. Nhưng thế nào là “thuận thiên”? Tác giả
Nguyễn Hiến Lê có nói đến tài mổ bò của một tên đầu bếp của vua Văn Huệ: hai
tay người này nắm con vật, đưa vai ra thúc nó, rồi hai chân bấm vào đất, hai đầu
gối ghì chặt nó. Hắn đưa lưỡi dao cắt xoẹt xoẹt, phát những âm thanh có tiết tấu
như âm nhạc. Được nhà vua ca ngợi về nghệ thuật mổ bò của mình, người đầu bếp
giải thích rằng lúc mới học nghề, hắn “chỉ
thấy con bò thôi. Ba năm sau, hắn không còn thấy con bò nữa. Lúc này hắn dùng
tinh thần hơn là dùng mắt. Cảm quan ngưng lại, chỉ còn tâm thần là hoạt động. Hắn
biết rõ sự cấu tạo của cơ thể con bò, cho nên chỉ lách lưỡi dao vào những chỗ kẽ
trong thân thể nó mà không đụng tới gân, bắp thịt hay xương của nó”.
Giống như tay đầu bếp, dưỡng sinh một cách thuận thiên là
tìm hiểu cơ thể của chính mình cũng như những nhu cầu giúp cơ thể lành mạnh và
chăm sóc theo.
Thuận thiên còn có nghĩa là “an thời xử thuận” để cho những
cảm xúc tiêu cực như buồn phiền, giận dữ, ganh tức...không xâm nhập vào tâm hồn,
làm thương tổn đến tính tình. Thuận thiên cũng có nghĩa là biết nhìn vào cuộc sống
với ánh mắt lạc quan và tin tưởng. Người
biết sống “thuận thiên” lúc nào cũng nhìn thấy cái phúc ẩn tàng trong cái họa. Người sống “thuận thiên”
là người biết chấp nhận những biến hóa của vạn vật, sự chuyển vận của luật trời.
Nguyễn Hiến Lê viết: “ai đạt được lẽ ấy
thì tâm thần không bị hỗn loạn, ngày đêm giữ được cái khí thuận hòa, ung dung,
vui vẻ như khí xuân mà thích ứng với mọi sự biến hóa”.
Người sống “thuận thiên” cũng là người biết xử thế sao
cho hòa hợp với mọi người. Nguyễn Hiến Lê đan cử câu chuyện của ông Nhan Hạp,
người được cử làm phó sư cho thái tử của vua Vệ Linh Công thời Đông Châu Liệt
Quốc. Thái tử là một thanh niên tàn bạo. Ông Nhan Hạp biết rằng nếu ngăn cản
người thanh niên thì nguy cho tánh mạng của mình, mà không can gián thì không
làm tròn nhiệm vụ của một phó sư. Ông liền đi vấn kế ông Cừ Bá Ngọc. Ông này
khuyên như sau: “Học trò của ông còn là một
đứa con nít thì ông cũng làm ra vẻ con nít với nó. Hó hành động không có phép tắc,
ông cũng làm bộ không giữ phép tắc với nó. Nó phóng đãng, ông cũng làm bộ phóng
đãng với nó. Như vậy ông sẽ dần dần sửa đổi được nó. Nói cách khác, cần phải mềm
mỏng, uyển chuyển với nó”. Ông Cừ Bá Ngọc giải thích: “Người nuôi cọp không dám cho cọp ăn một con vật còn sống hoặc ăn trọn
một con vật chết, sợ như vậy sẽ kích thích bản tính hung dữ hiếu sát của nó. Phải
cho nó ăn đúng giờ, tùy theo nó vui vẻ hay hung dữ mà thuận phục nó. Hổ không
cùng một loài với người, nhưng biết thuận theo tính tình nó thì nó cũng tỏ vẻ
làm vui lòng người nuôi nó. Nó vồ người nuôi nó chỉ vì người này làm trái tính
nó”. Nuôi hổ cũng giống như nuôi chim. Ở nước Lỗ, cũng thời Đông Châu Liệt
Quốc, có người bắt được một con chim biển, đặt tiệc mừng nó, tấu nhạc cho nó
nghe. Con chim dớn dác, âu sầu, không ăn uống gì cả, ba ngày sau chết. Tác giả
Nguyễn Hiến Lê bình: “Đó là lấy cách phụng
dưỡng con người mà nuôi con chim. Muốn nuôi chim thì phải theo đúng nhu cầu và
sở thích của chim, nghĩa là phải thuận theo chim”.
Thuận thiên, theo cách giải thích trên đây của
ông Nguyễn Hiến Lê, nói theo ngôn ngữ Tây Phương, cũng có nghĩa là “xỏ chân vào
giày của người khác”, tức hiểu được những cảm xúc của họ và như vậy mới có thể
cảm thông với họ.
Ứng dụng vào phương pháp dưỡng sinh, ông Nguyễn Hiến Lê
cho rằng con người cũng cần phải nắm vững cơ cấu của thân thể, biết các cơ phận
cần gì và hoạt động ra sao để điều khiển nó cho hợp với tự nhiên, chớ không mù
quáng chống đối nó. Chẳng hạn có bị nóng hoặc đi tả nhiều lần, khát nước thì cứ
uống; khi không thèm ăn thì cứ nhịn ăn; khi làm việc mệt nhọc thì phải ngừng lại
tịnh dưỡng; khi đau ốm thì tốt nhứt là
nghỉ ngơi, ăn ít để cơ thể tự chống lại bệnh. Tác giả cho rằng bài học này của
Trang Tử đặc biệt có giá trị cho con người thời đại, bởi vì ngày nay con người
bắt thể xác và tinh thần làm việc quá nhiều và lạm dụng thuốc men cũng nhiều.
Theo tác giả Nguyễn Hiến Lê, “thuận thiên” cũng có nghĩa
là sống gần thiên nhiên, ăn những thức ăn thiên nhiên và nhứt là không đi ngược
với thiên nhiên. Mới đây, tôi cũng đọc được một bài viết trên tập san của “The
Diggers Club”, câu lạc bộ chuyên sưu tầm những hạt giống chưa bị đổi “gen” di
truyền và khuyến khích việc canh tác “hữu cơ” (organic). Tác giả của bài viết
khẳng định rằng song song với việc thay đổi “gen” di truyền trên thực vật, người
ta cũng lạm dụng quá nhiều hóa chất, phân bón, thuốc sát trùng...trong việc
canh tác. Kết là tạo ra một thứ thực phẩm không “lương thiện”. Theo tác giả,
cây trái, rau cải phải “có quyền” phát triển theo mùa, “có quyền” có thì giờ để
tăng trưởng và chín. Vì vậy, người ta không lấy gì làm ngạc nhiên khi thị trường
đầy dẫy những trái cà chua chín mọng, những cây xà lách bóng bẩy, xanh tươi,
nhưng khi ăn vào, mùi vị của thứ nào cũng “lơ lớ”. Tôi thấy hình như chỉ còn
mía là giữ đủ vị...ngọt vì ngay cả chuối cũng chẳng còn hương vị. Người ta
không cần tiêu thụ quá nhiều thực phẩm như ngày nay, nhưng cần ăn thực phẩm
“lương thiện”. Khi mua trái cây rau cải một cách thừa mứa chúng ta vô tình thúc
đẩy một kỹ nghệ nông nghiệp thiếu lành mạnh.
Ngày nay, con người sống chen chúc trong các thành phố
thiếu không khí và nước trong lành, ăn những thực phẩm thiếu “lương thiện”. Đó
là chưa kể đến tình trạng ô nhiễm không khí và nguồn nước uống do văn minh cơ
khí tạo ra. Sống như thế, nếu hiểu theo cách dưỡng sinh của Trang Tử, cũng là một
cách sống “nghịch thiên”, nghĩa là đi ngược lại với thiên nhiên và như vậy cũng thiếu “lương thiện”.
Theo các nhà khoa học, khi nào mà những con ong bé nhỏ
không còn hiện diện thì lúc đó chính là dấu chỉ cho thiên tai và nhân tai lớn
nhứt xảy ra cho chúng ta: chúng ta sẽ không còn thực phẩm nữa. Và điều này
không còn nằm trên lý thuyết. Đã có nhiều vùng ong bị tàn sát vì thuốc diệt côn
trùng và mật ong cũng bị nhiễm hóa chất (Time 19.8.13).
Tôi vẫn xem như một phúc lành đặc biệt khi được
sống gần thiên nhiên. Ai đó đã có nói “người ở gần thiên nhiên không bao giờ cảm thấy cô độc”. Thiên nhiên chẳng khác một
người ở chung trực tính. Tôi luôn nhận một sự đáp trả “thẳng thừng” không qua lời
nói mà bằng hành động: Tôi chăm sóc thiên nhiên đúng cách, thiên nhiên cho tôi
cây ngon trái ngọt đúng mùa; tôi để cây mọc bừa bãi, thiên nhiên khiến tôi khốn
khổ vì ruồi muỗi, sâu bọ, cỏ hoang. Qua cái “luật tự nhiên” mà thiên nhiên dạy
cho tôi, tôi thấy mình biết chăm sóc và hiểu ý người, nhứt là thông cảm với họ
hơn, vì như thiên nhiên, họ cũng cần có lúc có thời và điều kiện môi trường để
trổ sinh hoa trái.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét