Thứ Sáu, 7 tháng 4, 2017

Nào ai lấy thước mà đo lòng người


Chu Thập
31.03.17
Mới đây tôi có nghe báo chí ở Việt Nam cũng như của người Việt hải ngoại nhắc đến tên của nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ. Trước năm 1975, những người thuộc thế hệ của tôi, nếu không trực tiếp đọc một số tác phẩm của bà, thì ít nhứt cũng nghe nói đến bà, một trong những ngôi sao sáng trong bầu trời văn học Miền Nam.
Theo một bản tin của báo Tuổi Trẻ trong nước được một số báo của người Việt hải ngoại trích thuật, toàn bộ sự nghiệp của bà, vốn sau năm 1975 bị xếp vào loại văn hóa đồi trụy, nay đã được Công ty Sách Phương Nam mua tác quyền để cho in lại. Điều này có nghĩa là chế độ cộng sản đã “xá giải” cho bà.
Nhưng bản tin trên đây không làm tôi chú ý cho bằng cuộc phỏng vấn qua đó nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ cho biết trước năm 1975, bà “viết văn là để nuôi 4 đứa con, trong đó có một đứa bị tàn tật”. Bà kể: “Mấy đứa con được tôi giao đứa lớn trông đứa nhỏ, đến chiều về nhà, có hôm thấy đứa con bị tàn tật đói nằm trên vũng nước đái, thiệt tôi muốn chết cho rồi”. Sau năm 1975, dù là con gái của một cán bộ kháng chiến, bà không thể tiếp tục cầm bút, mà phải bươn chải với những công việc cực nhọc như buôn bán vặt, làm lơ xe đò, làm rẫy, chăn dê, trồng cà phê để nuôi con, nhứt là đứa con gái đang sống đời thực vật. Điều khiến tôi cảm động và cũng thắc mắc nhiều nhứt là khi nhà văn nay đã ngoài 80 tuổi này  giải thích: “Vậy mà chính đứa con tàn tật này lại là đứa nuôi tôi vào lúc tuổi già”.
Tôi chưa hình dung được người con gái tàn tật và đang sống đời thực vật này “nuôi” mẹ mình như thế nào. Nhưng tôi tin chắc rằng một người tàn tật, dù dưới mắt người khác, nếu không là gánh nặng thì cũng chẳng làm nên tích sự gì, cũng  vẫn có thể mang lại nguồn vui và lẽ sống cho người thân của mình. Tôi rất thường nghĩ đến gương mặt của người con gái bị “đao” (Down Syndrome) mà tôi gặp hầu như mỗi ngày ở ngã ba phía trước nhà. Gọi là “cô gái” vì trông cô chẳng khác nào một thiếu nữ vị thành niên. Nhưng thật ra, theo giải thích của người cha mà tôi đã có dịp trao đổi, ít nhứt cô cũng đã bước vào tuổi tứ tuần. Gương mặt của cô lúc nào cũng tỏa ra niềm vui và sự trong trắng. Nhưng vui hơn có lẽ là cha mẹ của cô. Hầu như ngày nào họ cũng tiễn cô ra đầu ngõ, đứng nhìn theo với ánh mắt trìu mến và chờ cho đến khi cô băng qua đường để đến một hợp tác xã dành cho người khuyết tật ở góc đường mới trở vô nhà. Một cách nào đó, tôi hiểu được ý nghĩa của chữ “nuôi” mà nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ đã sử dụng để nói về mối quan hệ yêu thương, nâng đỡ giữa bà và người con gái tàn tật của bà. Tôi nghĩ: trên thế gian này, chẳng có người nào, dù tàn tật đến đâu, là người vô dụng hay là gánh nặng cho gia đình và xã hội cả. Mỗi người, theo cách thế riêng của mình, đều có chỗ đứng và sự đóng góp riêng của mình cho gia đình và xã hội. Nếu nhân loại có làm được một bước vĩ đại, thì bước vĩ đại đó chính là ngày càng nhìn nhận và tỏ ra tôn trọng người khuyết tật và dành cho họ một chỗ ưu tiên trong xã hội. Bởi lẽ người khuyết tật nào cũng mang lại niềm cảm hứng và dạy cho người khác nhiều bài học.
Đây là điều tôi cảm nhận được khi đọc bài phóng sự của Đài Aljazeera về một cô gái bị “đao” người Panama 19 tuổi tên là Maria Jose Paiz. Cô gái khuyết tật này đã từng xuất hiện trên một chương trình quảng cáo thương mại. Cô cũng đã từng nói chuyện tại Trụ sở Liên Hiệp Quốc và hiện cô cũng có một trang mạng riêng trên một trong những tờ báo có nhiều độc giả nhứt tại Panama.
Nhân Ngày Quốc Tế về Hội chứng Down được thế giới cử hành hôm 21 tháng 3 vừa qua, Maria nói rằng Hội chứng “Đao” không phải là một chứng bệnh, mà chỉ là một tai nạn di truyền. Cô cảm thấy buồn khi người ta bảo cô mắc “bệnh đao”. Cô nhìn nhận rằng cô có nhiều khó khăn hơn người khác. Chẳng hạn kết bạn là một điều khó khăn đối với cô vì cô không luôn hiểu được người khác. Nhưng bù lại, cô vẫn cảm thấy mình có đủ “tài” để làm được rất nhiều điều. Chẳng hạn cô có tài nhảy múa, viết văn và ngay cả làm “cố vấn”. Cô cho biết đã từng nói chuyện với những bậc phụ huynh có con có hội chứng “đao”. Cô khuyên họ hãy cố gắng hiểu và lắng nghe chúng mỗi khi chúng bày tỏ ý kiến.
Tháng 12 năm 2016 vừa qua, cô gái khuyết tật này đã mãn trung học. Cô thổ lộ một số tham vọng của mình. Trước hết là vào đại học để theo ngành truyền thông và sản xuất các chương trình truyền hình. Hiện nay cô đang có mặt tại Madrid, Tây Ban Nha để học nấu ăn cũng như những kỹ năng cần thiết khác cho cuộc sống. Và dĩ nhiên, cũng như rất nhiều cô gái trẻ khác, cô cũng có một người bạn trai mà cô rất mong được làm vợ.
Câu chuyện của cô gái “đao” người Panama trên đây đã mở mắt cho tôi về rất nhiều bí ẩn trong cuộc sống người khuyết tật dồng thời đòi hỏi tôi phải tôn trọng và cảm thông hơn là xem thường hoặc ngay cả khinh miệt. Nếu tôi có bước thêm một bước trong sự trưởng thành thì bước đó trước tiên phải là sự tôn trọng đối với những người khuyết tật và nhìn nhận những khác biệt nơi người khác.
Lúc nhỏ tôi không được giáo dục nhiều về nhân cách và học làm người. Xã hội của tuổi thơ của tôi là một xã hội trọng nam khinh nữ và khinh dể người tàn tật. Trong nhà đứa con trai nào cũng là một ông vua con. Trong lớp học hay ở ngoài đường, cứ gặp người tàn tật là trêu cười và chọc ghẹo. Riêng về phái tính thì mãi cho đến khi tôi trốn khỏi Việt Nam, xã hội, văn hóa và ngay cả “nhà đạo” của tôi lúc nào cũng đều tỏ ra rất “rạch ròi”: con người ta sinh ra hoặc là nam hoặc là nữ, chớ không thể nào là “ái nam ái nữ” được. Thật ra, lúc nhỏ và khi còn ở Việt Nam, họa hiếm lắm tôi mới thấy có một người “lại cái”. Dĩ nhiên một người như thế chỉ có thể là mục tiêu của chế diễu và trêu chọc mà thôi. Ngày nay với sự tiến bộ của nhiều bộ môn khoa học, nhứt là xã hội học và tâm lý học, bộ mặt của xã hội ngày càng đa diện hơn và đòi hỏi phải có sự tôn trọng đối với những dị biệt của người khác. Khác về văn hóa, khác về tôn giáo, khác về sức khỏe thể lý, khác về phái tính, khác về khuynh hướng tính dục. Vũ trụ ngày càng bao la và bí ẩn đã đành, mà con người đối với tôi lại càng bí ẩn hơn.
Tạp chí Time số ra ngày 27 tháng Ba vừa qua đã dành những trang chính để nói đến tính đa diện của xã hội Mỹ ngày nay, cách riêng về phái tính. Bài phóng sự của tạp chí này mở đầu với một cảnh tượng xảy ra tại một trường trung học ở thành phố Park City, Tiểu bang Utah. Các học sinh sắp hàng để nhận chìa khóa hộc tủ cất quần áo và đồ đạc khi sinh hoạt thể thao. Trước đây, hộc tủ cất quần áo và đồ đạc thường được phân chia dựa theo hai phái tính nam hoặc nữ hay cùng lắm đồng tính. Và trong giới đồng tính, người ta chỉ thấy có đồng tính nữ (lesbian), đồng tính nam (gay) lưỡng tính (bisexual) và chuyển giống (transgender). Nhưng nay, trong sân trường trung học Park City, người ta lại thấy có nhiều nhóm khác nữa. Có cả một nhóm gọi là “xuyên giống” (pansexual). Họ là những người mà người ta không thể xếp vào bất cứ sự phân loại nào. Cộng đồng đồng tính tại Hoa Kỳ được gọi tắt là “LGBT” (Lesbian,Gay, Bisexual, Transgender) nay có thêm chữ “Q” (queer). Tra từ điển, tôi mới biết từ này chỉ một nhóm người tự nhận là không thuộc phái tính hay bất cứ khuynh hướng tính dục nào. Trước đây, bản sắc con người thường chỉ được định nghĩa dựa theo hai phái tính nam hay nữ, đồng tính hay không đồng tính. Nay ngày càng có nhiều người xuất đầu lộ diện để nói rằng họ chẳng thuộc về nhóm nào trên đây cả.
Chính vì nhìn nhận và tôn trọng sự khác biệt này mà các nhà lập pháp thuộc nhiều cấp khác nhau tại Hoa Kỳ đã phải làm ra những luật mới để qui định về căn cước cũng như việc sử dụng nhà vệ sinh công cộng. Chẳng hạn tháng Hai vừa qua, Tiểu bang California đã thông qua luật để, ngoài phái nam và phái nữ truyền thống, còn  thêm một phái tính mới vào thẻ căn cước hay bằng lái xe. Các thành phố trên toàn quốc Hoa Kỳ cũng thông qua luật yêu cầu các phòng vệ sinh cá nhân nơi công cộng phải thêm vào hàng chữ “dành cho mọi phái tính” hay “dành cho người không thuộc phái tính nào” (gender neutral). Ngay trong Tòa Bạch Ốc, Tổng thống Barack Obama cũng cho thiết lập những phòng vệ sinh như thế.
Bộ mặt của xã hội quả thật ngày càng đa diện. Con người ngày càng ý thức về căn tính của mình hơn. Theo tổ chức có tên “GLAAD” chuyên bênh vực quyền của những người đồng tính, nói chung, có đến 20 phần trăm những người sinh ra trong thiên niên kỷ mới tự nhận mình không thuộc phái tính nào. Với thế hệ sinh sau Đệ Nhị Thế chiến, tỷ lệ nào chỉ có khoảng 7 phần trăm.
Những ngày đầu khi mới chân ướt chân ráo bước vào xã hội Tây Phương, tôi cảm thấy ngỡ ngàng và ngay cả khó chịu khi nhìn thấy hoặc nghe nói đến những sinh hoạt công khai của giới đồng tính. Tình cờ xem một cuốn phim mô tả một cách sống sượng quan hệ tình dục giữa hai người đồng tính nam, tôi cảm thấy như muốn ói mửa. Phải mất một thời gian khá lâu tôi mới thấy rằng để thực sự hội nhập vào xã hội Tây Phương, một trong những bài học đầu tiên tôi phải học là tập làm quen với xã hội của người đồng tính và của những người tự nhận không thuộc khuynh hướng tính dục nào. Xét cho cùng đó là một trong những nguyên tắc nền tảng của cuộc sống xã hội: chấp nhận tính đa diện và sự dị biệt của xã hội loài người. Lòng người vẫn mãi mãi là một bí ẩn sâu kín mà người ta không thể áp dụng bất cứ thước đo hay chuẩn mực nào để dò thấu. Lý trí của tôi có thể không hiểu được những bí ẩn của lòng người. Nhưng trái tim tôi lại thúc đẩy tôi phải tỏ ra khoan nhượng và  cảm thông trước những bí ẩn ấy. Kính nghiệm bản thân thường cho tôi thấy rằng chỉ với thái độ khoan nhượng và cảm thông tôi mới nhận ra được giá trị, chỗ đứng và sự đóng góp của người khác cho gia đình và xã hội.
Trong gia đình tôi không có người khuyết tật. Tôi chưa có được kinh nghiệm được “nuôi” bởi một người khuyết tật như nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ. Nhưng bất cứ một người khuyết tật hay một sự khác biệt nào nơi người khác cũng đều có thể là một thách đố mời gọi tôi thực thi sự khoan nhượng và cảm thông. Một cách nào đó, tôi được họ “nuôi” để lớn lên trong nhân cách và tình người.













Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét