Chu Thập
31.03.17
Mới đây tôi có nghe báo chí ở Việt Nam cũng như của người
Việt hải ngoại nhắc đến tên của nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ. Trước năm 1975, những
người thuộc thế hệ của tôi, nếu không trực tiếp đọc một số tác phẩm của bà, thì
ít nhứt cũng nghe nói đến bà, một trong những ngôi sao sáng trong bầu trời văn
học Miền Nam.
Theo một bản tin của báo Tuổi Trẻ trong nước được một số
báo của người Việt hải ngoại trích thuật, toàn bộ sự nghiệp của bà, vốn sau năm
1975 bị xếp vào loại văn hóa đồi trụy, nay đã được Công ty Sách Phương Nam mua
tác quyền để cho in lại. Điều này có nghĩa là chế độ cộng sản đã “xá giải” cho
bà.
Nhưng bản tin trên đây không làm tôi chú ý cho bằng cuộc
phỏng vấn qua đó nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ cho biết trước năm 1975, bà “viết
văn là để nuôi 4 đứa con, trong đó có một đứa bị tàn tật”. Bà kể: “Mấy đứa con được tôi giao đứa lớn trông đứa nhỏ, đến chiều về nhà, có hôm
thấy đứa con bị tàn tật đói nằm trên vũng nước đái, thiệt tôi muốn chết cho rồi”.
Sau năm 1975, dù là con gái của một cán bộ kháng chiến, bà không thể tiếp tục cầm
bút, mà phải bươn chải với những công việc cực nhọc như buôn bán vặt, làm lơ xe
đò, làm rẫy, chăn dê, trồng cà phê để nuôi con, nhứt là đứa con gái đang sống đời
thực vật. Điều khiến tôi cảm động và cũng thắc mắc nhiều nhứt là khi nhà văn
nay đã ngoài 80 tuổi này giải thích: “Vậy mà chính đứa con tàn tật này lại là đứa
nuôi tôi vào lúc tuổi già”.
Tôi chưa hình dung được người con gái tàn tật và đang sống
đời thực vật này “nuôi” mẹ mình như
thế nào. Nhưng tôi tin chắc rằng một người tàn tật, dù dưới mắt người khác, nếu
không là gánh nặng thì cũng chẳng làm nên tích sự gì, cũng vẫn có thể mang lại nguồn vui và lẽ sống cho
người thân của mình. Tôi rất thường nghĩ đến gương mặt của người con gái bị
“đao” (Down Syndrome) mà tôi gặp hầu như mỗi ngày ở ngã ba phía trước nhà. Gọi
là “cô gái” vì trông cô chẳng khác nào một thiếu nữ vị thành niên. Nhưng thật
ra, theo giải thích của người cha mà tôi đã có dịp trao đổi, ít nhứt cô cũng đã
bước vào tuổi tứ tuần. Gương mặt của cô lúc nào cũng tỏa ra niềm vui và sự
trong trắng. Nhưng vui hơn có lẽ là cha mẹ của cô. Hầu như ngày nào họ cũng tiễn
cô ra đầu ngõ, đứng nhìn theo với ánh mắt trìu mến và chờ cho đến khi cô băng
qua đường để đến một hợp tác xã dành cho người khuyết tật ở góc đường mới trở
vô nhà. Một cách nào đó, tôi hiểu được ý nghĩa của chữ “nuôi” mà nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ đã sử dụng để nói về mối quan hệ
yêu thương, nâng đỡ giữa bà và người con gái tàn tật của bà. Tôi nghĩ: trên thế
gian này, chẳng có người nào, dù tàn tật đến đâu, là người vô dụng hay là gánh
nặng cho gia đình và xã hội cả. Mỗi người, theo cách thế riêng của mình, đều có
chỗ đứng và sự đóng góp riêng của mình cho gia đình và xã hội. Nếu nhân loại có
làm được một bước vĩ đại, thì bước vĩ đại đó chính là ngày càng nhìn nhận và tỏ
ra tôn trọng người khuyết tật và dành cho họ một chỗ ưu tiên trong xã hội. Bởi
lẽ người khuyết tật nào cũng mang lại niềm cảm hứng và dạy cho người khác nhiều
bài học.
Đây là điều tôi cảm nhận được khi đọc bài phóng sự của
Đài Aljazeera về một cô gái bị “đao” người Panama 19 tuổi tên là Maria Jose
Paiz. Cô gái khuyết tật này đã từng xuất hiện trên một chương trình quảng cáo
thương mại. Cô cũng đã từng nói chuyện tại Trụ sở Liên Hiệp Quốc và hiện cô
cũng có một trang mạng riêng trên một trong những tờ báo có nhiều độc giả nhứt
tại Panama.
Nhân Ngày Quốc Tế về Hội chứng Down được thế giới cử hành
hôm 21 tháng 3 vừa qua, Maria nói rằng Hội chứng “Đao” không phải là một chứng
bệnh, mà chỉ là một tai nạn di truyền. Cô cảm thấy buồn khi người ta bảo cô mắc
“bệnh đao”. Cô nhìn nhận rằng cô có nhiều khó khăn hơn người khác. Chẳng hạn kết
bạn là một điều khó khăn đối với cô vì cô không luôn hiểu được người khác.
Nhưng bù lại, cô vẫn cảm thấy mình có đủ “tài” để làm được rất nhiều điều. Chẳng
hạn cô có tài nhảy múa, viết văn và ngay cả làm “cố vấn”. Cô cho biết đã từng
nói chuyện với những bậc phụ huynh có con có hội chứng “đao”. Cô khuyên họ hãy
cố gắng hiểu và lắng nghe chúng mỗi khi chúng bày tỏ ý kiến.
Tháng 12 năm 2016 vừa qua, cô gái khuyết tật này đã mãn trung
học. Cô thổ lộ một số tham vọng của mình. Trước hết là vào đại học để theo
ngành truyền thông và sản xuất các chương trình truyền hình. Hiện nay cô đang
có mặt tại Madrid, Tây Ban Nha để học nấu ăn cũng như những kỹ năng cần thiết
khác cho cuộc sống. Và dĩ nhiên, cũng như rất nhiều cô gái trẻ khác, cô cũng có
một người bạn trai mà cô rất mong được làm vợ.
Câu chuyện của cô gái “đao” người Panama trên đây đã mở mắt
cho tôi về rất nhiều bí ẩn trong cuộc sống người khuyết tật dồng thời đòi hỏi
tôi phải tôn trọng và cảm thông hơn là xem thường hoặc ngay cả khinh miệt. Nếu
tôi có bước thêm một bước trong sự trưởng thành thì bước đó trước tiên phải là
sự tôn trọng đối với những người khuyết tật và nhìn nhận những khác biệt nơi
người khác.
Lúc nhỏ tôi không được giáo dục nhiều về nhân cách và học
làm người. Xã hội của tuổi thơ của tôi là một xã hội trọng nam khinh nữ và
khinh dể người tàn tật. Trong nhà đứa con trai nào cũng là một ông vua con.
Trong lớp học hay ở ngoài đường, cứ gặp người tàn tật là trêu cười và chọc ghẹo.
Riêng về phái tính thì mãi cho đến khi tôi trốn khỏi Việt Nam, xã hội, văn hóa
và ngay cả “nhà đạo” của tôi lúc nào cũng đều tỏ ra rất “rạch ròi”: con người ta
sinh ra hoặc là nam hoặc là nữ, chớ không thể nào là “ái nam ái nữ” được. Thật
ra, lúc nhỏ và khi còn ở Việt Nam, họa hiếm lắm tôi mới thấy có một người “lại
cái”. Dĩ nhiên một người như thế chỉ có thể là mục tiêu của chế diễu và trêu chọc
mà thôi. Ngày nay với sự tiến bộ của nhiều bộ môn khoa học, nhứt là xã hội học
và tâm lý học, bộ mặt của xã hội ngày càng đa diện hơn và đòi hỏi phải có sự
tôn trọng đối với những dị biệt của người khác. Khác về văn hóa, khác về tôn
giáo, khác về sức khỏe thể lý, khác về phái tính, khác về khuynh hướng tính dục.
Vũ trụ ngày càng bao la và bí ẩn đã đành, mà con người đối với tôi lại càng bí ẩn
hơn.
Tạp chí Time số ra ngày 27 tháng Ba vừa qua đã dành những
trang chính để nói đến tính đa diện của xã hội Mỹ ngày nay, cách riêng về phái
tính. Bài phóng sự của tạp chí này mở đầu với một cảnh tượng xảy ra tại một trường
trung học ở thành phố Park City, Tiểu bang Utah. Các học sinh sắp hàng để nhận
chìa khóa hộc tủ cất quần áo và đồ đạc khi sinh hoạt thể thao. Trước đây, hộc tủ
cất quần áo và đồ đạc thường được phân chia dựa theo hai phái tính nam hoặc nữ
hay cùng lắm đồng tính. Và trong giới đồng tính, người ta chỉ thấy có đồng tính
nữ (lesbian), đồng tính nam (gay) lưỡng tính (bisexual) và chuyển giống
(transgender). Nhưng nay, trong sân trường trung học Park City, người ta lại thấy
có nhiều nhóm khác nữa. Có cả một nhóm gọi là “xuyên giống” (pansexual). Họ là
những người mà người ta không thể xếp vào bất cứ sự phân loại nào. Cộng đồng đồng
tính tại Hoa Kỳ được gọi tắt là “LGBT” (Lesbian,Gay, Bisexual, Transgender) nay
có thêm chữ “Q” (queer). Tra từ điển, tôi mới biết từ này chỉ một nhóm người tự
nhận là không thuộc phái tính hay bất cứ khuynh hướng tính dục nào. Trước đây,
bản sắc con người thường chỉ được định nghĩa dựa theo hai phái tính nam hay nữ,
đồng tính hay không đồng tính. Nay ngày càng có nhiều người xuất đầu lộ diện để
nói rằng họ chẳng thuộc về nhóm nào trên đây cả.
Chính vì nhìn nhận và tôn trọng sự khác biệt này mà các
nhà lập pháp thuộc nhiều cấp khác nhau tại Hoa Kỳ đã phải làm ra những luật mới
để qui định về căn cước cũng như việc sử dụng nhà vệ sinh công cộng. Chẳng hạn
tháng Hai vừa qua, Tiểu bang California đã thông qua luật để, ngoài phái nam và
phái nữ truyền thống, còn thêm một phái
tính mới vào thẻ căn cước hay bằng lái xe. Các thành phố trên toàn quốc Hoa Kỳ
cũng thông qua luật yêu cầu các phòng vệ sinh cá nhân nơi công cộng phải thêm
vào hàng chữ “dành cho mọi phái tính” hay “dành cho người không thuộc phái tính
nào” (gender neutral). Ngay trong Tòa Bạch Ốc, Tổng thống Barack Obama cũng cho
thiết lập những phòng vệ sinh như thế.
Bộ mặt của xã hội quả thật ngày càng đa diện. Con người
ngày càng ý thức về căn tính của mình hơn. Theo tổ chức có tên “GLAAD” chuyên
bênh vực quyền của những người đồng tính, nói chung, có đến 20 phần trăm những
người sinh ra trong thiên niên kỷ mới tự nhận mình không thuộc phái tính nào. Với
thế hệ sinh sau Đệ Nhị Thế chiến, tỷ lệ nào chỉ có khoảng 7 phần trăm.
Những ngày đầu khi mới chân ướt chân ráo bước vào xã hội
Tây Phương, tôi cảm thấy ngỡ ngàng và ngay cả khó chịu khi nhìn thấy hoặc nghe
nói đến những sinh hoạt công khai của giới đồng tính. Tình cờ xem một cuốn phim
mô tả một cách sống sượng quan hệ tình dục giữa hai người đồng tính nam, tôi cảm
thấy như muốn ói mửa. Phải mất một thời gian khá lâu tôi mới thấy rằng để thực
sự hội nhập vào xã hội Tây Phương, một trong những bài học đầu tiên tôi phải học
là tập làm quen với xã hội của người đồng tính và của những người tự nhận không
thuộc khuynh hướng tính dục nào. Xét cho cùng đó là một trong những nguyên tắc
nền tảng của cuộc sống xã hội: chấp nhận tính đa diện và sự dị biệt của xã hội
loài người. Lòng người vẫn mãi mãi là một bí ẩn sâu kín mà người ta không thể
áp dụng bất cứ thước đo hay chuẩn mực nào để dò thấu. Lý trí của tôi có thể
không hiểu được những bí ẩn của lòng người. Nhưng trái tim tôi lại thúc đẩy tôi
phải tỏ ra khoan nhượng và cảm thông trước
những bí ẩn ấy. Kính nghiệm bản thân thường cho tôi thấy rằng chỉ với thái độ
khoan nhượng và cảm thông tôi mới nhận ra được giá trị, chỗ đứng và sự đóng góp
của người khác cho gia đình và xã hội.
Trong gia đình tôi không có người khuyết tật. Tôi chưa có
được kinh nghiệm được “nuôi” bởi một
người khuyết tật như nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ. Nhưng bất cứ một người khuyết
tật hay một sự khác biệt nào nơi người khác cũng đều có thể là một thách đố mời
gọi tôi thực thi sự khoan nhượng và cảm thông. Một cách nào đó, tôi được họ “nuôi” để lớn lên trong nhân cách và tình
người.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét