Thứ Hai, 9 tháng 5, 2016

Nam Sudan: quốc gia non trẻ nhất thế giới

6.5.16

Giành được độc lập ngày 9 tháng 6 năm 2011, giáp giới với một số nước như Sudan ở phía Bắc, Cộng hòa Trung Phi và Cộng hòa Dân chủ Congo ở phía Tây, Kenya ở phía Nam và Ethiopia ở phía Đông...cho tới nay Nam Sudan vẫn được xem là quốc gia non trẻ nhất thế giới. Nếu có được nhắc đến, quốc gia Phi Châu này có lẽ chỉ xuất hiện trong những câu hỏi đại loại như “quốc gia nào trên thế giới vừa mới giành được độc lập?”
Gồm 10 tiểu bang với diện tích trên 600 ngàn cây số vuông và với dân số từ 7 đến 10 triệu người, Nam Sudan được xem là một trong những nước đa diện nhất ở Phi Châu. Quốc gia mới này hiện có trên 60 nhóm sắc tộc khác nhau được thống nhất nhờ 2 ngôn ngữ chính là tiếng Anh và tiếng Á Rập. Ngoài ra, bên cạnh các tôn giáo cổ truyền, Kitô Giáo được xem là tôn giáo chính của đa số dân Nam Sudan.
Việc tách khỏi Bắc Sudan và độc lập đã không đương nhiên chấm dứt được chiến tranh tại Nam Sudan. Cuộc nội chiến từ năm 2013 đến năm 2015 đã khiến cho khoảng 2.2 triệu người Nam Sudan phải đi lánh nạn và cho tới nay vẫn còn tiếp tục đe dọa sự ổn định và an ninh của quốc gia còn non trẻ này.
Nhiều người Nam Sudan hy vọng rằng sự trở về của ông Riek Machar, người đã từng là lãnh tụ của các nhóm phiến quân ly khai trong cuộc nội chiến, sẽ mở ra một tương lai tươi sáng hơn cho đất nước. Tuy nhiên, di sản của không biết bao nhiêu cuộc xung đột trong quá khứ và nhất là cuộc nội chiến mới đây, khiến cho nhiều người không tỏ ra quá lạc quan khi nhìn về tương lai của Nam Sudan.
Dù sao, việc ông Machar trở lại và được phục hồi trong chức vụ phó tổng thống cũng là một tín hiệu tốt. Trong giai đoạn chuyển tiếp này, chính phủ Nam Sudan cam kết sẽ cho tổ chức bầu cử nội trong vòng 30 tháng tới. Đây là thách đố mà các quan sát viên ngoại quốc e ngại rằng Nam Sudan khó vượt qua được. Có thể giai đoạn sắp tới sẽ là giai đoạn đầy căng thẳng cho quốc gia này, bởi vì phó tổng thống Machar đã bày tỏ quyết tâm bằng mọi giá phải lên làm tổng thống. Trong khi đó, đương kim tổng thống, ông Salva Kiir Mayardit cũng tỏ ra dứt khoát không kém trong việc bám chắc vào ghế tổng thống của mình.
Một trong những nỗ lực lớn nhất của chính phủ lâm thời là phải thống nhất các lực lượng quân sự vốn đã từng bị chia năm xẻ bảy trong các cuộc xung đột và cuộc nội chiến vừa qua. Chắc chắn đây không phải là điều dễ dàng cho chính phủ. Các quan sát viên đã không tỏ ra mấy lạc quan khi nhìn vào những phản ứng của chính phủ và các lực lượng phiến quân tại phi trường Juba khi ông Machar hồi hương: chỉ đứng cách nhau vài thước, nhưng hai bên đã không muốn nhìn mặt nhau. Trong lễ nghi nhậm chức của Phó Tổng thống Machar, hai bên cũng chẳng tỏ ra niềm nở với nhau. Đây là một cuộc hôn phối hoàn toàn bất đắc dĩ có thể dẫn đến đổ vỡ bất cứ lúc nào.
Ngoài chuyện thống nhất các lực lượng quân sự, chính phủ lâm thời còn phải cho thiết lập một tòa án hỗn hợp để xét xử những người đã từng bị tố cáo có những hành vi tội ác trong cuộc nội chiến. Điều này xem ra lại càng khó khăn hơn.
Sự chia rẽ giữa tổng thống và phó tổng thống của một quốc gia còn non trẻ phản ảnh phần nào những xung đột sâu xa giữa nhiều sắc tộc làm nên quốc gia này.
Đương kim Tổng thống Nam Suda, Salva Kiir Mayardit, là người đã có công lớn trong cuộc tranh đấu giành độc lập cho đất nước. Ông xuất thân từ sắc tộc lớn nhất ở miền Nam Sudan là Dinka. Năm 2005, sau khi người sáng lập và lãnh tụ của Phong trào Giải phóng Sudan (SPLM) là ông John Garang bất thần qua đời, ông Kiir Mayardit đã lên thay thế. Cái chết của ông Garang là một mất mát lớn cho Phong trào Giải Phóng Sudan, bởi vì 3 tháng trước đó ông đã thành công trong việc thương lượng với Chính phủ Sudan để chấm dứt 3 cuộc xung đột vũ trang đã kéo dài trong 3 thập niên. Mặc dù luôn tỏ ra hiếu chiến và luôn xuất hiện với chiếc mũ “cao bồi” cố hữu, cuối cùng ông Kiir Mayardit cũng đã chấp nhận ngồi vào bàn thương thuyết với Chính phủ Sudan và được giành cho chiếc ghế phó tổng thống trong Chính phủ Sudan. Với tư thế này, ông Kiir Mayardit đã tiếp tục cuộc đàm phán để rồi cuối cùng 7 năm sau, tức năm 2011, đã đạt được độc lập cho Nam Sudan và lên làm tổng thống tiên khởi của quốc gia mới này.
Tuy thất học, lại không có tài ăn nói trước công chúng, ông Kiir Mayardit đã thu hút được đám đông mỗi khi nói chuyện trong các cuộc biểu tình. Là một người công giáo thuần thành, ông thường đến nói chuyện trong ngôi thánh đường chính của Giáo hội Công giáo ở Thủ đô Juba.
Đối thủ gần như không đội trời chung của Tổng thống Kiir Mayardit là Phó Tổng thống Riek Machar lại xuất thân từ sắc tộc Nuer. Đây là sắc tộc có đông dân số thứ nhì tại Nam Sudan. Sát cánh bên nhau trong cuộc chiến giành độc lập, nhưng sắc tộc Dinka của ông Kiir Mayardit và sắc tộc Nuer của ông Riek Machar cũng kình chống nhau không kém trong suốt cuộc nội chiến. Năm 2013, tức chỉ 2 năm sau khi Nam Sudan giành được độc lập, ông Kiir Mayardit đã tố cáo ông Machar âm mưu đảo chính. Ông Machar bị bãi nhiệm, dẫn đến một cuộc nội chiến gây ra không biết bao nhiêu đau thương tang tóc cho quốc gia còn non trẻ này.
Trái với ông Kiir Mayardit, ông Salvar Machar là một nhà trí thức đã từng du học tại Đại học Bradford, Anh Quốc và đã tốt nghiệp với bằng tiến sĩ triết học và chuyên về kế hoạch hóa. Đã từng nắm giữ một vai trò quan trọng trong cuộc chiến đấu vũ trang của Phong trào Giải phóng Sudan, ông Machar lên làm phó tổng thống khi Nam Sudan giành được độc lập. Năm 2013, vì không nhìn nhận những cáo buộc có âm mưu đảo chính, ông Machar đã vào bưng, tổ chức kháng chiến. Cuộc nội chiến kéo dài 3 năm này đã làm cho khoảng 300 ngàn người thiệt mạng và khoảng 2 triệu người phải đi lánh nạn.
Cuộc nội chiến tại Nam Sudan chỉ chấm dứt vào tháng 8 năm 2015. Nhưng mãi đến tháng 4 vừa qua, ông Machar mới chính thức trở lại Thủ đô Juba để tuyên thệ nhậm chức phó tổng thống. Cuộc sống chung hòa bình giữa tổng thống và phó tổng thống nước này chỉ là một sự dàn xếp đầy gượng ép. Nếu cuộc “hôn nhân” này mang lại hòa bình, làm ngưng tiếng súng, chấm dứt những vụ hãm hiếp và chém giết giữa các sắc tộc, thì đây quả là một sự thành công lớn. Nhưng có lẽ điều đó vẫn còn là một viễn ảnh xa vời.
Bên cạnh những xung đột và hận thù giữa các sắc tộc và nhất là giữa các nhà lãnh đạo là những yếu tố có thể làm phát sinh các cuộc nổi dậy bất cứ lúc nào, quốc gia còn quá non trẻ này lại phải đương đầu với một nền kinh tế cũng rất èo uột.
Trước cuộc nội chiến dạo tháng 12 năm 2013, một bao đường 50 ký chỉ giá khoảng từ 10 đến 16 Mỹ kim. Nay giá của một bao đường như thế tăng gấp 5 lần. Liền sau khi ông Machar trở lại và được phục quyền, giá đã giảm đi phần nào. Điều này cho thấy kinh tế của Nam Sudan và tình hình chính trị lệ thuộc vào nhau.
Các chính trị gia nước này hy vọng rằng cộng đồng thế giới sẽ đổ tiền vào một khi chính phủ mới được thành lập. Nhưng họ sẽ thất vọng vì các nhà đầu tư vẫn còn cân nhắc và chờ đợi. Giá dầu lửa trên thế giới đang sụt giảm. Nam Sudan chỉ có một cửa ngõ duy nhất để xuất cảng dầu là Sudan, quốc gia họ đã tách khỏi cách đây 5 năm. Điều đó có nghĩa là nguồn xuất cảng chính của Nam Sudan hiện vẫn kể như số không.
Ngoài ra Nam Sudan còn phải đương đầu với một vấn đề khác còn rắc rối và trầm trọng hơn nhiều: chính phủ mới có thể mang một bộ mặt mới, nhưng trong thực chất, chế độ này cũng chỉ là một thứ “bình mới mà rượu thì vẫn cũ”. Nói cách khác, chính phủ này cũng gồm toàn những bộ mặt cũ đã từng cai trị xứ sở trước khi xảy ra cuộc nội chiến. Kép đã cũ mà tuồng cũng cũ: không có bất cứ một sự thay đổi nào trong chính phủ. Có khi tình trạng lại càng bi đát hơn trước khi xảy ra nội chiến.
David Ring Gai là một trong hơn hai triệu người Nam Sudan đã từng đi lánh nạn vì cuộc nội chiến. Ông hiện đang xây một căn nhà mới. Nhưng ông không hài lòng mấy với căn nhà mới này. Lý do là vì căn nhà mới này vẫn còn được bao quanh bằng hàng rào giây thép gai, trong một trại dành cho người tỵ nạn được Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc dựng lên trong một khu ngoại ô của Thủ đô Juba.
Ngay cả sự trở về của ông Machar cũng chưa đủ để thuyết phục ông Gai rằng tình hình xứ sở sẽ thay đổi theo chiều hướng tốt. Trong một cuộc phỏng vấn dành cho Đài BBC, ông Gai không tin rằng Nam Sudan sẽ được hòa bình dù chỉ trong một thời gian ngắn. Chính vì vậy mà ông không muốn trở về quê quán của mình. Ông nói: “Tôi đã sinh ra trong chiến tranh và đã lớn lên trong chiến tranh và đó là xứ sở của tôi”. Ông hy vọng rằng tương lai của con cái ông sẽ sáng sủa hơn. Nhưng ông lại không tỏ ra mấy lạc quan. Chính phủ mới sẽ phải liên kết lại một đất nước vốn đã bị xâu xé triền miên vì chia rẽ. Ông Gai cho biết: ông và và hầu hết những người đang cùng sống với ông trong trại tỵ nạn vẫn còn bị đe dọa chỉ vì ông thuộc về sắc tộc Nuer của Phó Thủ tướng Machar.
Một người bạn của ông Gai tên là Stephen nói rằng 8 người trong gia đình ông đều bị giết chết ngay trong những ngày đầu của cuộc nội chiến, chỉ vì họ là người sắc tộc Nuer. Người đàn ông phải trải qua một biến cố đau thương như thế nói rằng còn lâu ông mới có thể suy nghĩ như một người bình thường được.
Trong khi đó thì rất nhiều người thuộc sắc tộc Dinka như Tổng thống Kiir Mayardit cũng đã bị các phiến quân thuộc sắc tộc Nuer sát hại. Và dĩ nhiên, cho tới nay vẫn có nhiều người thuộc hai sắc tộc thù nghịch này cùng sống chung trong một trại tỵ nạn.
Phóng viên James Copnall của Đài BBC đã gặp hai người đàn ông như thế trên một sân bóng rổ: Acuil Banggol là người sắc tộc Dinka và William Deng thuộc sắc tộc Nuer. Hai người đàn ông này cho biết họ đã là bạn của nhau từ năm 1977. Họ nói rằng họ không muốn để cho chính trị chia rẽ họ và biến họ thành kẻ thù của nhau.
Trên sân bóng rổ, trong trường học, nơi chợ búa, bên trong các làng mạc và ngay cả trong các đơn vị của quân đội Nam Sudan, hầu như bất cứ người dân nào cũng chỉ biết mong mỏi hòa bình.
Niềm khao khát ấy cùng với một chút áp lực được tạo trên các chính trị gia bị ràng buộc với các cộng đồng sắc tộc của họ, có thể là cơ hội tốt nhất mang lại hòa bình và phát triển cho quốc gia được xem là non trẻ nhất trên bản đồ thế giới hiện nay.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét