Chu Thập
6.6.12
Mừng sinh nhựt thứ 86 của nữ hoàng
Elizabeth II và kỷ niệm 60 năm bà lên ngôi, tôi ngồi ngẫm nghĩ và cười thầm.
Vua Bảo Đại thoái vị được một năm thì tôi mới chào đời. Như vậy, gần một nửa đời
người sống ở Việt nam, tôi chưa từng được làm tôi cho một ông hoàng bà chúa nào
cả. Vậy mà giờ đây, ở nửa đời còn lại, thằng tôi da vàng mũi tẹt đang sống ở
vùng đất Miệt Dưới này bỗng trở thành thần dân của một nữ hoàng đang ngồi trên
ngai cách tôi đến cả nửa vòng trái đất. Như vậy mà không buồn cười sao?
Khi tôi vừa đến tuổi có trí khôn thì Tổng
thống Ngô Đình Diệm ra nhiếp chính. Đây là “thời thái bình cửa thường mở ngỏ”
duy nhứt trong đời tôi. Mỗi năm, cứ Tết đến, tôi được đi chơi “Bài Chòi” suốt
đêm mà không sợ một ông du kích Việt cộng
nào bắt cóc, chặt đầu hay gài mìn đặt
bom cho tan xác cả. Hầu như trong làng
nào cũng có cất một cái rạp bằng tre và lợp bằng lá dừa. Trong suốt gần một
tháng Giêng “ăn chơi”, lúc nào cũng có một gánh Hát Bội về giúp vui. Năm nào
gánh hát bội đến “hát” trong làng tôi cũng diễn những tuồng quen thuộc trong đó
có những nhân vật mà cha tôi thường nhắc đến như Tiết Đinh San, Tiết Nhơn Quý
hay Phàn Lê Huê gì đó. Lũ con nít chúng tôi chẳng hiểu gì về vở tuồng mà chỉ
dán mắt vào những gương mặt cải trang diêm dúa đến tận cùng của mấy ông bà đào
kép. Nhìn những gương mặt trông buồi cười, cách phục sức chẳng giống ai và điệu
bộ xàng qua xàng lại của các diễn viên cũng đủ cười rồi, huống chi là nghe những
tiếng gào thét ứ ự trong cổ của họ.
Không hiểu sao tôi lại liên tưởng đến những
cảnh “hát bội” ấy mỗi khi nhìn mấy ông bà thẩm phán trong các tòa án tại một số
cựu thuộc địa của Anh quốc. Ở tận bên Phi Châu hay mất hút trên các đảo quốc
Thái Bình Dương, mỗi khi ngồi vào ghế để xét xử, những ông bà quan tòa, tóc vốn
quắn tít chẳng còn một kẽ hở, lại đội lên đầu một bộ tóc giả bạc phơ của mấy
ông hoàng bà chúa thời Trung cổ bên Tây. Cứ nhìn vào đó là tôi lại thấy tức cười!
Và dĩ nhiên, cứ nghĩ đến chuyện mình chạy
trốn khỏi chế độ độc tài cộng sản để rồi trở thành thần dân của một nữ hoàng,
tôi cũng thấy buồn cười không kém.
Nhưng nghĩ lại, tôi thấy mình phải cám
ơn Vương quốc Anh. Không có cái vương quốc thực dân dẫm chân lên khắp năm châu
bốn bể này thì làm gì có một quốc gia Úc đại lợi để tôi “kiếm” được một chỗ dung
thân trong những ngày cuối đời. Không có mẫu quốc Anh thì làm gì có cái “nước
con Úc đại lợi” là nơi đã mở rộng vòng tay để đón nhận tôi làm con dân, là nơi
tôi đang hít thở không khí tự do và có được cuộc sống hạnh phúc. Tôi không biết
rồi đây phong trào Cộng Hòa có đủ mạnh để Úc đại lợi được “nghỉ chơi” với mẫu
quốc và chính thức tuyên bộ độc lập không. Thật ra, cần gì phải tuyên bố là một
nước “Cộng Hòa” với đầy đủ “Độc lập-Tự do-Hạnh phúc” như “cộng hòa xạo hết chỗ nói”
ở Việt nam, Úc vẫn là một quốc gia chẳng lệ thuộc và chẳng sợ thằng Tây nào cả.
Cũng chẳng cần rêu rao quảng cáo, quốc gia này vẫn tạo ra đầy đủ mọi điều kiện
để tôi có thể sống thật sự hạnh phúc, nếu không hơn thì cũng chẳng thua bất cứ
một nước văn minh nào trên thế giới này. Còn tự do ư? Còn đâu tôi cảm thấy tự do cho bằng trong đất
nước này. Có mở miệng yêu cầu nữ hoàng của tôi đừng bén mảng tới Úc đại lợi hay
bêu diễu bà thì tôi cũng chẳng sợ bị đày ải, tru di tam tộc hay bị đưa đi cải tạo
mút mùa như khi tôi “đụng” một chút tới mấy ông vua quan cộng sản Việt nam. Cho
nên, với tôi, được làm công dân của một Cộng Hòa Úc đại lợi hay tiếp tục làm thần
dân của một nữ hoàng cũng chẳng có gì thay đổi hay mất mát cả.
Ai cũng biết rằng sự tồn tại của một nữ
hoàng, một hoàng gia hay nói chung một chế độ quân chủ tại Vương quốc Anh thống
nhứt vào thế kỷ 21 này chỉ có tính cách tượng trưng. Biểu tượng này có lẽ sẽ
mãi còn đó để không những cho người dân Anh chính hiệu tự hào về quá khứ oanh
liệt hào hùng của họ mà cũng nhắc nhở cho thế giới này rằng không cần phải làm
cách mạng đẫm máu để lật đổ một chế độ quân chủ, để sát hại một ông vua và cả một
hoàng tộc như trường hợp Pháp hay Nga mà vẫn có được dân chủ và tự do như Anh
quốc, như một số quốc gia Âu châu hay như Nhựt Bổn và Thái Lan ở Á châu. Biểu
tượng ấy cũng muốn nói với thế giới rằng lịch sử vốn là bệ phóng để tiến tới chứ
không phải để ngồi đó mà dậm chân tại chỗ. Tôi vẫn thường tự hỏi: nếu không có
một vương quốc Anh đi thực dân thì liệu ngày nay có một Hiệp chủng quốc Hoa kỳ
hùng mạnh để, không những quảng bá văn minh kỹ thuật, nền dân chủ, mà còn đứng
ra làm trọng tài hữu hiệu trong nhiều cuộc xung đột và chiến tranh trên khắp thế
giới không?
Tôi tin ở sức mạnh đào thải của lịch sử.
Ai không đi theo trào lưu tiến bộ của lịch sử thì sẽ bị kết án là lạc hậu và
thoái hóa. Tôi thấy vừa tức cười vừa tức giận khi nghe tổng bí thư Việt nam,
ông Nguyễn Phú Trọng, tuyên bố tại hội nghị trung ương Đảng mở rộng mới đây rằng
Đảng cộng sản Việt nam sẽ không bao giờ chấp nhận “tam quyền phân lập” (Lập
pháp, Hành pháp và Tư pháp). Nghe chẳng khác nào câu nói nổi tiếng của vua
Louis XIV (1638-1715) của Pháp quốc: “Nhà
nước chính là ta” (L’Etat c’est moi!), ta nắm hết mọi quyền hành trong tay,
mọi tài sản trong nước thuộc về ta, ta muốn cho ai sống chết là quyền của ta,
ta là tất cả! Không chấp nhận “tam quyền
phân lập”, Đảng cộng sản Việt nam hành xử khác nào vua Louis XIV. Cách đây 300
năm mà thế giới còn không chấp nhận một lời tuyên bố như thế huống chi là ngày
nay.
Lịch sử luôn tiến tới cho nên tôi luôn
nhìn vào các biến cố lịch sử với tinh thần lạc quan. Thời nào cũng có chiến
tranh. Nhưng cứ sau một lần chiến tranh, nhân loại lại xích lại gần nhau hơn, ý
thức về phẩm giá con người lớn thêm, những ý niệm về nhân quyền lại được làm
sáng tỏ hơn và nhứt là tình liên đới, sự tương trợ và tương thuộc lại mạnh hơn.
Chưa bao giờ nhân loại tự xem là một “đại gia đình” cho bằng trong thế kỷ 21
này.
Lạc quan khi nhìn vào những biến cố lịch
sử, tôi cũng cảm thấy được thúc đẩy để tin tưởng hơn về cuộc sống của chính bản
thân. Chúa nhựt 1 tháng 7 vừa rồi, Kitô giáo mừng lễ “Một Chúa Ba Ngôi”. Trong
bài giảng thánh lễ, vị linh mục thú nhận rằng ông chẳng hiểu gì về “mầu nhiệm”
này và bài giảng của ông thì tôi cũng phải thú nhận, tôi cũng chẳng hiểu gì. Đi
lễ mỗi chúa nhựt mà không được bồi dưỡng bằng một lời hay ý đẹp nào để sống một
tuần lễ, tôi coi đó như một mất mát hơn. Cũng may, quớ được tờ nguyệt san của
giáo phận biếu không để ở cuối nhà thờ, tôi mở trang cuối và đọc được những lời
khuyên như sau:
“Đừng
tìm cách hiểu mọi sự, vẫn có những điều sẽ chẳng bao giờ có ý nghĩa gì cả. Đừng
bao giờ ngại bày tỏ cảm xúc của mình: khi bạn hạnh phúc thì cứ bảo mình hạnh
phúc, khi bạn không hạnh phúc thì cũng hãy cố gắng sống với tâm trạng đó.
Đừng
bao giờ sợ phải cố gắng làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn: bạn sẽ ngạc nhiên với những
kết quả không ngờ!
Đừng
bao giờ cảm thấy bị tương lai đe dọa: hãy sống từng ngày!
Đừng
bao giờ để cho quá khứ dằn vặt: cái gì qua hãy cho qua, hãy rút ra bài học từ
những sai lầm!
Đừng
bao giờ cảm thấy đơn độc, vẫn luôn có ai đó để bạn nối kết với!
Đừng
bao giờ quên rằng bạn có thể làm được nhiều điều mà bạn không tưởng tượng được...
Đừng
bao giờ ngừng yêu thương.
Đừng
bao giờ ngừng tin tưởng.
Đừng
bao giờ ngừng mơ những giấc mơ của bạn” (BBN, Broken Bay News, Publication of
the Catholic Diocese of Broken Bay, June 2012).
“Đừng
bao giờ tìm cách hiểu mọi sự, vẫn còn những điều sẽ chẳng bao giờ có ý nghĩa gì
cả”.
Tôn giáo vốn có các “mầu nhiệm” đã đành, mà lịch sử và cuộc sống con người nói
chung cũng đầy dẫy những “mầu nhiệm”. Mà “mầu nhiệm” của cuộc sống dường như chỉ
có thể “nhìn” thấy qua sự cảm thông. Tôi thích suy niệm về giai thoại “Bữa cơm
của Khổng Tử”: Lần kia, Khổng Tử dẫn các
môn sinh của mình đi du thuyết từ nước Lỗ sang nước Tề. Trong đám môn sinh, có
Nhan Hồi và Tử Lộ là hai người học trò yêu quý nhứt của Khổng Tử.
Thời
Đông Châu Liệt Quốc, chiến tranh triền miên, các nước chư hầu loạn lạc, dân
chúng phiêu bạt điêu linh, lầm than đói khổ. Thày trò Đức Khổng cũng lâm vào cảnh
rau cháo cầm hơi qua ngày và cũng trải qua nhiều ngày phải nhịn đói, nhịn khát.
Tuy vậy, không một ai kêu than, thoái chí; mọi người đều quyết tâm theo thày
cho đến cùng.
May
mắn thay, ngày đầu tiên đến đất Tề, có một nhà phú hào từ lâu đã nghe danh Khổng
Tử, cho nên mới đem biếu thày trò một ít gạo. Khổng Tử liền phân công: Tử Lộ dẫn anh em vào
rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi đảm nhận việc nấu cơm. Sau khi Tử Lộ dẫn các môn
sinh vào rừng kiếm rau, Nhan Hồi bắt đầu nấu cơm. Khổng Tử nằm đọc sách ở nhà
trên, đối diện với nhà bếp, chỉ cách có một cái sân nhỏ.
Đang
đọc sách, Khổng Tử bỗng nghe một tiếng động từ nhà bếp vọng lên. Ngài ngừng đọc
và liếc mắt nhìn xuống thì thấy Nhan Hồi đang từ từ mở vung, lấy đũa xới cơm
cho vào tay và nắm lại từng nắm nhỏ. Xong đâu đó, Nhan Hồi đậy vung lại, liếc mắt
nhìn chung quanh và từ từ đưa cơm lên miệng.
Cử
chỉ của Nhan Hồi không lọt qua đôi mắt của vị thày tôn kính. Ngài thở dài và ngửa
mặt lên trời mà than rằng: “Chao ơi, học trò tín cẩn nhứt của ta mà lại đi ăn vụng,
đốn mạt như thế này ư? Chao ôi, bao nhiêu kỳ vọng ta đặt vào nó thế là tan
thành mây khói!”
Sau
đó, Tử Lộ cùng các môn sinh khác mang rau về. Nhan Hồi lại luộc rau. Khổng Tử vẫn nằm im đau khổ. Một lát sau thì
rau chín. Nhan Hồi và Tử Lộ dọn cơm lên nhà trên. Tất cả các môn sinh đều chắp
tay kính cẩn mời Khổng Tử dùng cơm. Ngài liền ngồi dậy và nói: “Các con ơi,
chúng ta từ đất Lỗ sang Tề đường xa vạn dậm, thày rất mừng vì trong hoàn cảnh
loạn lạc, dãi nắng dầm mưa, đói khổ như thế này mà các con vẫn giữ được tấm
lòng trong sạch, các con vẫn yêu thương đùm bọc nhau, các con vẫn một dạ theo
thày, trải qua bao nhiêu chặng đường đói cơm, khát nước. Hôm nay, ngày đầu tiên
đến đất Tề, may mắn làm sao thày trò ta lại có được bữa cơm. Bữa cơm đầu tiên
trên đất Tề làm thày chạnh lòng nhớ đến quê hương nước Lỗ. Thày nhớ đến cha mẹ
thày, cho nên thày muốn xới một chén cơm để cúng cha mẹ thày, các con bảo có
nên không?”
Trừ
Nhan Hồi đang đứng im, các môn sinh khác đều chắp tay thưa: “Dạ thưa thày nên ạ”.
Khổng Tử lại nói: “Nhưng không biết nồi cơm này có sạch không?”
Tất
cả các môn sinh đều không rõ ý Khổng Tử muốn nói gì nên ngơ ngác nhìn nhau. Lúc
bấy giờ, Nhan Hồi liền chắp tay thưa: “Dạ thưa thày, nồi cơm này không được sạch”.
Khổng Tử hỏi: “Tại sao?” Nhan Hồi liền
thưa: “Khi cơm chín, con mở vung ra xem thử cơm đã chín đều chưa, chẳng may một
cơn gió tràn vào, bồ hóng và bụi trên nhà rơi xuống làm bẩn cả nồi cơm. Con đã
nhanh tay đậy vung lại nhưng không kịp. Sau đó, con liền xới lớp cơm bẩn ra định
ném đi nhưng lại nghĩ: cơm thì ít mà anh em lại đông, nếu bỏ lớp cơm bẩn này
thì vô tình làm mất một phần ăn, anh em hẳn phải ăn ít lại. Vì thế con đã mạn
phép thày và tất cả anh em, ăn trước phần cơm bẩn ấy, còn phần cơm sạch để dâng
thày và anh em. Thưa thày, như vậy là hôm nay con đã ăn cơm rồi. Bây giờ, con
xin phép không ăn cơm nữa. Con chỉ ăn phần rau. Và thưa thày, nồi cơm đã ăn trước
thì không nên cúng nữa ạ”.
Nghe
Nhan Hồi giải thích, Đức Khổng Tử ngửa mặt lên trời mà than rằng: “Chao ôi! Thế
ra trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không
hiểu được đúng sự thật. Chao ôi, suýt tí nữa là Khổng Tử này trở thành kẻ hồ đồ”
Có những điều thấy vậy mà không phải vậy.
Thiếu sự cảm thông, con người dễ có phán đoán “hồ đồ”. Đó là bài học mà lịch sử
luôn dạy cho tôi!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét