Thứ Tư, 4 tháng 5, 2016

Bài học lịch sử dành cho tôi



Chu Thập
6.6.12




Mừng sinh nhựt thứ 86 của nữ hoàng Elizabeth II và kỷ niệm 60 năm bà lên ngôi, tôi ngồi ngẫm nghĩ và cười thầm. Vua Bảo Đại thoái vị được một năm thì tôi mới chào đời. Như vậy, gần một nửa đời người sống ở Việt nam, tôi chưa từng được làm tôi cho một ông hoàng bà chúa nào cả. Vậy mà giờ đây, ở nửa đời còn lại, thằng tôi da vàng mũi tẹt đang sống ở vùng đất Miệt Dưới này bỗng trở thành thần dân của một nữ hoàng đang ngồi trên ngai cách tôi đến cả nửa vòng trái đất. Như vậy mà không buồn cười sao?
Khi tôi vừa đến tuổi có trí khôn thì Tổng thống Ngô Đình Diệm ra nhiếp chính. Đây là “thời thái bình cửa thường mở ngỏ” duy nhứt trong đời tôi. Mỗi năm, cứ Tết đến, tôi được đi chơi “Bài Chòi” suốt đêm mà không sợ một ông du kích Việt  cộng  nào bắt cóc, chặt đầu hay gài mìn đặt bom cho tan xác cả.  Hầu như trong làng nào cũng có cất một cái rạp bằng tre và lợp bằng lá dừa. Trong suốt gần một tháng Giêng “ăn chơi”, lúc nào cũng có một gánh Hát Bội về giúp vui. Năm nào gánh hát bội đến “hát” trong làng tôi cũng diễn những tuồng quen thuộc trong đó có những nhân vật mà cha tôi thường nhắc đến như Tiết Đinh San, Tiết Nhơn Quý hay Phàn Lê Huê gì đó. Lũ con nít chúng tôi chẳng hiểu gì về vở tuồng mà chỉ dán mắt vào những gương mặt cải trang diêm dúa đến tận cùng của mấy ông bà đào kép. Nhìn những gương mặt trông buồi cười, cách phục sức chẳng giống ai và điệu bộ xàng qua xàng lại của các diễn viên cũng đủ cười rồi, huống chi là nghe những tiếng gào thét ứ ự trong cổ của họ.
Không hiểu sao tôi lại liên tưởng đến những cảnh “hát bội” ấy mỗi khi nhìn mấy ông bà thẩm phán trong các tòa án tại một số cựu thuộc địa của Anh quốc. Ở tận bên Phi Châu hay mất hút trên các đảo quốc Thái Bình Dương, mỗi khi ngồi vào ghế để xét xử, những ông bà quan tòa, tóc vốn quắn tít chẳng còn một kẽ hở, lại đội lên đầu một bộ tóc giả bạc phơ của mấy ông hoàng bà chúa thời Trung cổ bên Tây. Cứ nhìn vào đó là tôi lại thấy tức cười!  Và dĩ nhiên, cứ nghĩ đến chuyện mình chạy trốn khỏi chế độ độc tài cộng sản để rồi trở thành thần dân của một nữ hoàng, tôi cũng thấy buồn cười không kém.
Nhưng nghĩ lại, tôi thấy mình phải cám ơn Vương quốc Anh. Không có cái vương quốc thực dân dẫm chân lên khắp năm châu bốn bể này thì làm gì có một quốc gia Úc đại lợi để tôi “kiếm” được một chỗ dung thân trong những ngày cuối đời. Không có mẫu quốc Anh thì làm gì có cái “nước con Úc đại lợi” là nơi đã mở rộng vòng tay để đón nhận tôi làm con dân, là nơi tôi đang hít thở không khí tự do và có được cuộc sống hạnh phúc. Tôi không biết rồi đây phong trào Cộng Hòa có đủ mạnh để Úc đại lợi được “nghỉ chơi” với mẫu quốc và chính thức tuyên bộ độc lập không. Thật ra, cần gì phải tuyên bố là một nước “Cộng Hòa” với đầy đủ “Độc lập-Tự do-Hạnh phúc” như “cộng hòa xạo hết chỗ nói” ở Việt nam, Úc vẫn là một quốc gia chẳng lệ thuộc và chẳng sợ thằng Tây nào cả. Cũng chẳng cần rêu rao quảng cáo, quốc gia này vẫn tạo ra đầy đủ mọi điều kiện để tôi có thể sống thật sự hạnh phúc, nếu không hơn thì cũng chẳng thua bất cứ một nước văn minh nào trên thế giới này. Còn tự do ư?  Còn đâu tôi cảm thấy tự do cho bằng trong đất nước này. Có mở miệng yêu cầu nữ hoàng của tôi đừng bén mảng tới Úc đại lợi hay bêu diễu bà thì tôi cũng chẳng sợ bị đày ải, tru di tam tộc hay bị đưa đi cải tạo mút mùa như khi tôi “đụng” một chút tới mấy ông vua quan cộng sản Việt nam. Cho nên, với tôi, được làm công dân của một Cộng Hòa Úc đại lợi hay tiếp tục làm thần dân của một nữ hoàng cũng chẳng có gì thay đổi hay mất mát cả.
Ai cũng biết rằng sự tồn tại của một nữ hoàng, một hoàng gia hay nói chung một chế độ quân chủ tại Vương quốc Anh thống nhứt vào thế kỷ 21 này chỉ có tính cách tượng trưng. Biểu tượng này có lẽ sẽ mãi còn đó để không những cho người dân Anh chính hiệu tự hào về quá khứ oanh liệt hào hùng của họ mà cũng nhắc nhở cho thế giới này rằng không cần phải làm cách mạng đẫm máu để lật đổ một chế độ quân chủ, để sát hại một ông vua và cả một hoàng tộc như trường hợp Pháp hay Nga mà vẫn có được dân chủ và tự do như Anh quốc, như một số quốc gia Âu châu hay như Nhựt Bổn và Thái Lan ở Á châu. Biểu tượng ấy cũng muốn nói với thế giới rằng lịch sử vốn là bệ phóng để tiến tới chứ không phải để ngồi đó mà dậm chân tại chỗ. Tôi vẫn thường tự hỏi: nếu không có một vương quốc Anh đi thực dân thì liệu ngày nay có một Hiệp chủng quốc Hoa kỳ hùng mạnh để, không những quảng bá văn minh kỹ thuật, nền dân chủ, mà còn đứng ra làm trọng tài hữu hiệu trong nhiều cuộc xung đột và chiến tranh trên khắp thế giới không?
Tôi tin ở sức mạnh đào thải của lịch sử. Ai không đi theo trào lưu tiến bộ của lịch sử thì sẽ bị kết án là lạc hậu và thoái hóa. Tôi thấy vừa tức cười vừa tức giận khi nghe tổng bí thư Việt nam, ông Nguyễn Phú Trọng, tuyên bố tại hội nghị trung ương Đảng mở rộng mới đây rằng Đảng cộng sản Việt nam sẽ không bao giờ chấp nhận “tam quyền phân lập” (Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp). Nghe chẳng khác nào câu nói nổi tiếng của vua Louis XIV (1638-1715) của Pháp quốc: “Nhà nước chính là ta” (L’Etat c’est moi!), ta nắm hết mọi quyền hành trong tay, mọi tài sản trong nước thuộc về ta, ta muốn cho ai sống chết là quyền của ta, ta là tất cả!  Không chấp nhận “tam quyền phân lập”, Đảng cộng sản Việt nam hành xử khác nào vua Louis XIV. Cách đây 300 năm mà thế giới còn không chấp nhận một lời tuyên bố như thế huống chi là ngày nay.
Lịch sử luôn tiến tới cho nên tôi luôn nhìn vào các biến cố lịch sử với tinh thần lạc quan. Thời nào cũng có chiến tranh. Nhưng cứ sau một lần chiến tranh, nhân loại lại xích lại gần nhau hơn, ý thức về phẩm giá con người lớn thêm, những ý niệm về nhân quyền lại được làm sáng tỏ hơn và nhứt là tình liên đới, sự tương trợ và tương thuộc lại mạnh hơn. Chưa bao giờ nhân loại tự xem là một “đại gia đình” cho bằng trong thế kỷ 21 này.
Lạc quan khi nhìn vào những biến cố lịch sử, tôi cũng cảm thấy được thúc đẩy để tin tưởng hơn về cuộc sống của chính bản thân. Chúa nhựt 1 tháng 7 vừa rồi, Kitô giáo mừng lễ “Một Chúa Ba Ngôi”. Trong bài giảng thánh lễ, vị linh mục thú nhận rằng ông chẳng hiểu gì về “mầu nhiệm” này và bài giảng của ông thì tôi cũng phải thú nhận, tôi cũng chẳng hiểu gì. Đi lễ mỗi chúa nhựt mà không được bồi dưỡng bằng một lời hay ý đẹp nào để sống một tuần lễ, tôi coi đó như một mất mát hơn. Cũng may, quớ được tờ nguyệt san của giáo phận biếu không để ở cuối nhà thờ, tôi mở trang cuối và đọc được những lời khuyên như sau:
“Đừng tìm cách hiểu mọi sự, vẫn có những điều sẽ chẳng bao giờ có ý nghĩa gì cả. Đừng bao giờ ngại bày tỏ cảm xúc của mình: khi bạn hạnh phúc thì cứ bảo mình hạnh phúc, khi bạn không hạnh phúc thì cũng hãy cố gắng sống với tâm trạng đó.
Đừng bao giờ sợ phải cố gắng làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn: bạn sẽ ngạc nhiên với những kết quả không ngờ!
Đừng bao giờ cảm thấy bị tương lai đe dọa: hãy sống từng ngày!
Đừng bao giờ để cho quá khứ dằn vặt: cái gì qua hãy cho qua, hãy rút ra bài học từ những sai lầm!
Đừng bao giờ cảm thấy đơn độc, vẫn luôn có ai đó để bạn nối kết với!
Đừng bao giờ quên rằng bạn có thể làm được nhiều điều mà bạn không tưởng tượng được...
Đừng bao giờ ngừng yêu thương.
Đừng bao giờ ngừng tin tưởng.
Đừng bao giờ ngừng mơ những giấc mơ của bạn” (BBN, Broken Bay News, Publication of the Catholic Diocese of Broken Bay, June 2012).
“Đừng bao giờ tìm cách hiểu mọi sự, vẫn còn những điều sẽ chẳng bao giờ có ý nghĩa gì cả”. Tôn giáo vốn có các “mầu nhiệm” đã đành, mà lịch sử và cuộc sống con người nói chung cũng đầy dẫy những “mầu nhiệm”. Mà “mầu nhiệm” của cuộc sống dường như chỉ có thể “nhìn” thấy qua sự cảm thông. Tôi thích suy niệm về giai thoại “Bữa cơm của Khổng Tử”: Lần kia, Khổng Tử dẫn các môn sinh của mình đi du thuyết từ nước Lỗ sang nước Tề. Trong đám môn sinh, có Nhan Hồi và Tử Lộ là hai người học trò yêu quý nhứt của  Khổng Tử.
Thời Đông Châu Liệt Quốc, chiến tranh triền miên, các nước chư hầu loạn lạc, dân chúng phiêu bạt điêu linh, lầm than đói khổ. Thày trò Đức Khổng cũng lâm vào cảnh rau cháo cầm hơi qua ngày và cũng trải qua nhiều ngày phải nhịn đói, nhịn khát. Tuy vậy, không một ai kêu than, thoái chí; mọi người đều quyết tâm theo thày cho đến cùng.
May mắn thay, ngày đầu tiên đến đất Tề, có một nhà phú hào từ lâu đã nghe danh Khổng Tử, cho nên mới đem biếu thày trò một ít gạo.  Khổng Tử liền phân công: Tử Lộ dẫn anh em vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi đảm nhận việc nấu cơm. Sau khi Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau, Nhan Hồi bắt đầu nấu cơm. Khổng Tử nằm đọc sách ở nhà trên, đối diện với nhà bếp, chỉ cách có một cái sân nhỏ.
Đang đọc sách, Khổng Tử bỗng nghe một tiếng động từ nhà bếp vọng lên. Ngài ngừng đọc và liếc mắt nhìn xuống thì thấy Nhan Hồi đang từ từ mở vung, lấy đũa xới cơm cho vào tay và nắm lại từng nắm nhỏ. Xong đâu đó, Nhan Hồi đậy vung lại, liếc mắt nhìn chung quanh và từ từ đưa cơm lên miệng.
Cử chỉ của Nhan Hồi không lọt qua đôi mắt của vị thày tôn kính. Ngài thở dài và ngửa mặt lên trời mà than rằng: “Chao ơi, học trò tín cẩn nhứt của ta mà lại đi ăn vụng, đốn mạt như thế này ư? Chao ôi, bao nhiêu kỳ vọng ta đặt vào nó thế là tan thành mây khói!”
Sau đó, Tử Lộ cùng các môn sinh khác mang rau về. Nhan Hồi lại luộc rau.  Khổng Tử vẫn nằm im đau khổ. Một lát sau thì rau chín. Nhan Hồi và Tử Lộ dọn cơm lên nhà trên. Tất cả các môn sinh đều chắp tay kính cẩn mời Khổng Tử dùng cơm. Ngài liền ngồi dậy và nói: “Các con ơi, chúng ta từ đất Lỗ sang Tề đường xa vạn dậm, thày rất mừng vì trong hoàn cảnh loạn lạc, dãi nắng dầm mưa, đói khổ như thế này mà các con vẫn giữ được tấm lòng trong sạch, các con vẫn yêu thương đùm bọc nhau, các con vẫn một dạ theo thày, trải qua bao nhiêu chặng đường đói cơm, khát nước. Hôm nay, ngày đầu tiên đến đất Tề, may mắn làm sao thày trò ta lại có được bữa cơm. Bữa cơm đầu tiên trên đất Tề làm thày chạnh lòng nhớ đến quê hương nước Lỗ. Thày nhớ đến cha mẹ thày, cho nên thày muốn xới một chén cơm để cúng cha mẹ thày, các con bảo có nên không?”
Trừ Nhan Hồi đang đứng im, các môn sinh khác đều chắp tay thưa: “Dạ thưa thày nên ạ”. Khổng Tử lại nói: “Nhưng không biết nồi cơm này có sạch không?”
Tất cả các môn sinh đều không rõ ý Khổng Tử muốn nói gì nên ngơ ngác nhìn nhau. Lúc bấy giờ, Nhan Hồi liền chắp tay thưa: “Dạ thưa thày, nồi cơm này không được sạch”.  Khổng Tử hỏi: “Tại sao?” Nhan Hồi liền thưa: “Khi cơm chín, con mở vung ra xem thử cơm đã chín đều chưa, chẳng may một cơn gió tràn vào, bồ hóng và bụi trên nhà rơi xuống làm bẩn cả nồi cơm. Con đã nhanh tay đậy vung lại nhưng không kịp. Sau đó, con liền xới lớp cơm bẩn ra định ném đi nhưng lại nghĩ: cơm thì ít mà anh em lại đông, nếu bỏ lớp cơm bẩn này thì vô tình làm mất một phần ăn, anh em hẳn phải ăn ít lại. Vì thế con đã mạn phép thày và tất cả anh em, ăn trước phần cơm bẩn ấy, còn phần cơm sạch để dâng thày và anh em. Thưa thày, như vậy là hôm nay con đã ăn cơm rồi. Bây giờ, con xin phép không ăn cơm nữa. Con chỉ ăn phần rau. Và thưa thày, nồi cơm đã ăn trước thì không nên cúng nữa ạ”.
Nghe Nhan Hồi giải thích, Đức Khổng Tử ngửa mặt lên trời mà than rằng: “Chao ôi! Thế ra trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không hiểu được đúng sự thật. Chao ôi, suýt tí nữa là Khổng Tử này trở thành kẻ hồ đồ”
Có những điều thấy vậy mà không phải vậy. Thiếu sự cảm thông, con người dễ có phán đoán “hồ đồ”. Đó là bài học mà lịch sử luôn dạy cho tôi!






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét