Thứ Tư, 25 tháng 5, 2016

“Một nơi an toàn và nhân ái hơn”



Chu Thập
27.6.12
 



Mỗi lần mở máy vi tính tôi thường ngẫm nghĩ: thời buổi thông tin toàn cầu này sướng thiệt! Thông tin và kiến thức thì hàng hà sa số. Muốn biết điều gì và ngay cả muốn làm điều gì, cứ nhấp con chuột, hỏi thăm ông Google là ra ngay. Tôi nghĩ:  về kiến thức và khả năng truy cứu, một nhà bác học cách đây nửa thế kỷ có lẽ cũng phải chào thua một em học sinh tiểu học ngày nay. Thông tin và kiến thức thì như thế, nhưng nếu xét về “bài học làm người” thì dường như con người thời đại chưa chắc đã hơn con người ngày xưa, ngay cả chưa chắc hơn con người còn sống trong những bộ lạc bán khai mà ánh sáng văn minh chưa rọi tới.
Tôi thường suy nghĩ về một nghịch lý: về kiến thức, tôi học được trên ghế nhà trường, tôi tìm tòi trong sách sở, tôi tra cứu trên Internet, nhưng về “học làm người” tôi lại học được nhiều điều trong thiên nhiên. Thiên nhiên quả là một cuốn bách khoa “học làm người” toàn hảo nhứt đối với tôi. Tôi không có được cái rủi ro hay may mắn như nhân vật Mowgli trong “Cuốn sách rừng xanh” (Jungle Book) của văn hào Anh được giải Nobel văn chương Rudyard Kipling (1865-1936), để được thú rừng nuôi dưỡng và nhờ đó hiểu được tiếng nói của thú vật. Nhưng lâm viên quốc gia bên cạnh nhà và nhứt là cái “trại chăn nuôi” nhỏ bé của tôi cũng đủ là một cuốn sách để tôi học được rất nhiều điều. Thú vật quả có nhiều điều để “dạy” cho con người.
Một ông bạn vừa chuyển đến cho tôi một câu chuyện mà ông nói là có thực một trăm phần trăm đã xảy ra tại Nhựt Bản. Có một người muốn sửa nhà cho nên đã dỡ tường ra; tường nhà theo kiến trúc của người Nhựt thường để một tấm gỗ ở giữa, hai bên trát xi măng, nhưng thực chất bên trong thì để rỗng. Khi cho dỡ tường ra, người chủ nhà mới ngạc nhiên vô cùng khi thấy có một con thằn lằn đang ngủ trong đó. Quan sát thật kỹ, ông mới khám phá ra một điều lạ lùng: con vật đáng thương đã bị đóng đinh vào trong tường cách đây đã 10 năm. Vậy mà nó vẫn còn sống. Thấy chuyện bất thường cho nên thay vì tiếp tục tháo gỡ bức tường, ông mới ngừng tay lại và tiếp tục theo dõi để xem con thằn lằn sống như thế nào. Ông không thể tưởng tượng được, bởi vì có một con thằn lằn khác đã xuất hiện, miệng nó ngoặm một miếng thức ăn và mớm cho con vật đồng loại đang bị đóng đinh. Chuyện “thăm nuôi” hàng ngày này đã diễn ra từ 10 năm qua.
Chuyện thú vật “tỏ tình” liên đới với nhau, chuyện con thú của một chủng loại này “cứu trợ” hay nuôi dưỡng những con thú thuộc một chủng loại khác không phải là chuyện hiếm có. Và dĩ nhiên, chuyện thú cứu sống và nuôi dưỡng con người cũng không phải là chuyện hoang tưởng. Chính vì vậy mà ngay cả nguồn gốc của một trong những kinh thành nổi tiếng nhứt trong lịch sử nhân loại là Roma đã được xây dựng trên huyền thoại chó sói mẹ nuôi dưỡng cập song sinh Romulus và Remus. Theo huyền thoại thì cập song sinh Romulus và Remus đã bị người cậu là Amulius, vì sợ tiếm vị, sai người cho quăng xuống dòng sông Tevere. Nhưng may mắn thay, hai cậu bé đã được nước sông chuyên chở vào bờ, được một con chó sói mẹ cho bú mớm và được cả một con chim gõ kiến mang mồi đến nuôi. Về sau, một người chăn cừu và vợ ông đã đưa hai cậu bé về nuôi dạy cho thành người. Romulus làm nên sự nghiệp và xây dựng một thành phố mới lấy tên là Roma.
Thú vật thường dạy cho tôi nhiều bài học về “làm người”. Một trong những bài học đó là sự khoan nhượng. Tôi chưa hề chứng kiến một cuộc “chiến tranh” nào giữa gà và vịt tôi nuôi chung trong một chuồng. Điều lạ lùng hơn nữa là tôi cũng chưa từng thấy có bất cứ dấu hiệu nào của sự “kỳ thị chủng tộc” trong đám gà của tôi. Số gà tôi hiện có phần lớn đều do tôi tự tay ấp lấy. Số trứng tôi cho vào lồng ấp lại có nhiều xuất xứ khác nhau, cho nên khi nở ra, bầy gà của tôi thuộc đủ mọi “sắc tộc”. Chân vàng, chân chì, chân trắng...lông nâu, lông đen, lông trắng...loại cao cẳng, loại nhỏ con và ngay cả loại có mào trên đầu (silkie), thế giới gà của tôi thật sự đa chủng. Vậy mà tất cả đều sống chung hòa bình với nhau. Cứ sáng dậy, sau khi ăn “điểm tâm”, cả bầy kéo nhau lên rừng và lúc nào cũng “sát cánh” bên nhau. Tất cả đều là “con bà xơ” hết. Vậy mà chẳng bao giờ có cảnh “gà cùng một mẹ đá nhau” hay loại trừ nhau chỉ vì mầu lông hay mầu da.
Nhìn đàn gà rồi nghĩ đến chuyện xảy ra như cơm bữa trong thế giới loài người thấy mà ngán ngẫm. Như chuyện mới xảy ra tại Ukraina hay Balan hôm khai mạc giải túc cầu Âu Châu vừa qua chẳng hạn: nơi thì khán giả Á châu hay da mầu bị tấn công một cách tàn bạo, nơi thì cầu thủ da đen bị chế nhạo như khỉ. Chuyện kỳ thị chủng tộc xảy ra hằng ngày đó đây trên khắp thế giới không khỏi gợi lại thảm cảnh bi đát nhứt trong lịch sử nhân loại hồi Đệ nhị thế chiến: 6 triệu người Do thái bị mang ra sát tế chỉ vì họ là người Do thái. Chiến tranh diệt chủng hay thanh lọc chủng tộc lấp đầy các trang sử của nhân loại. Ngay cả như người Do thái, trên đường về Đất Hứa, vì tự cho mình là “dân riêng” được Thiên Chúa tuyển chọn cho nên đã chẳng tỏ ra chút xót thương nào đối với những dân tộc bị xem là “ngoại đạo” hay thấp hèn khác. Trên đường đi thực dân chiếm đất, người da trắng đã tiêu diệt không biết bao nhiêu giống dân bị xem là man di mọi rợ và thấp kém. Phải mất hằng bao nhiêu thế kỷ người da trắng mới chấm dứt (dĩ nhiên trên nguyên tắc) việc buôn bán người nô lệ da đen và kỳ thị đối với người Phi Châu và da mầu. Nhưng trong thực tế, dường như óc kỳ thị vẫn còn đó, có khi hiển hiện một cách trơ tráo, có khi tiềm ẩn trong những hành xử vô ý thức.
Thực ra, xét cho cùng, có dân tộc nào mà không có máu kỳ thị. “Trung hoa vĩ đại” vẫn mãi mãi tự xem mình là cái đinh “ở giữa” thế giới. Không ra mặt kỳ thị như người Việt nam, nhưng có người ngoại quốc nào mà không bị chúng ta “nhìn xuống” bằng nửa con mắt; có người ngoại quốc nào mà không bị chúng ta gọi một cách khinh bỉ là “thằng”. Hễ không phải là người Việt nam thì là “thằng” hết. Nhưng đâu phải chỉ có cái dân tộc tự hào hơn “bốn ngàn năm văn hiến” như Việt nam mới xem thường và kỳ thị người khác. Lạc hậu như mấy anh thổ dân Úc mà cũng xem người người sắc tộc khác có ra gì đâu. Một nhà truyền giáo người Việt nam làm việc lâu năm với người thổ dân ở Bắc Úc có lần kể rằng mỗi lần chửi nhau, người thổ dân thường chê nhau: “Đồ ngu như người da trắng”.
“Ngu” là mẫu số chung của loài người chớ chẳng phải của riêng một dân tộc nào. Chẳng có dân tộc nào thông minh hơn dân tộc khác. Không phải chỉ có người da trắng mới là bác học, khoa học gia hay thần đồng. Mới đây, bên Mỹ, có một người thanh niên cha Nhựt Bản, mẹ Đại Hàn đã tốt nghiệp bác sĩ khi chỉ mới 21 tuổi. Thần đồng gốc Á châu này đã vào đại học năm 9 tuổi, lấy bằng tiến sĩ năm 18 tuổi. Thần đồng như thế thì chắc chắn ở đâu và thời đại nào cũng có cả.
Bàn về “sắc đẹp” thì đâu phải hễ có da trắng,  tóc vàng, mắt sâu, mũi cao mới là đẹp. Văn minh Âu Tây thắng thế cho nên mới áp đặt những tiêu chuẩn về đẹp xấu theo cái nhìn của họ. Kỳ thực, như người Việt nam chúng ta thường viết trong các trang “Tìm bạn bốn phương”, “Đẹp xấu là tùy người đối diện”. Thật vậy, đẹp hay xấu thường là do con mắt chủ quan. Nếu người Tây phương vẽ “Con quỷ” đen thủi đen thui, thì đối với người Á châu, như người Việt chúng ta chẳng hạn, quỷ sứ toàn là loài trắng bóc hết! Ngày xưa, ông bà chúng ta đã chẳng gọi mấy “thằng tây” trắng thực dân là “bạch quỷ” đó sao!
Kỳ thị ở trong máu con người. Nó là một thách đố để con người cố gắng vươn lên và biết sống khoan nhượng, hài hòa hơn. Với sự mở rộng của hệ thống thông tin toàn cầu, với các phương tiện giao thông ngày càng tối tân,  con người càng mở to con mắt của mình hơn để nhận ra rằng thế giới là một ngôi làng, nhân loại là một gia đình trong đó chẳng có chủng tộc nào hơn chủng tộc nào cả và trong đó mọi người đều được mời gọi sống khoan nhượng và hài hòa với nhau. Giải Túc Cầu Âu Châu hiện nay là một lời mời gọi sống khoan nhượng. Không những trong các vận động trường người ta thấy nhan nhản những khẩu hiệu chống lại chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc, mà ngay sự pha trộn màu da trong từng đội tuyển cũng đủ là một biểu tượng kêu gọi tinh thần khoan nhượng.
Nhìn vào dân số Úc ngày nay tôi cũng cảm thấy lạc quan. Trong phần điểm tin “News Review” số ra cuối tuần vừa qua, báo The Sydney Morning Herald đã trích dẫn kết quả của cuộc điều tra dân số lần thứ 16 được thực hiện ngày 9 tháng 8 năm ngoái. Các con số thống kê cho thấy Úc đại lợi không còn là đất nước của riêng người da trắng nữa. Bộ mặt của người Úc hiện nay, nhìn chung, được tô vẽ bằng đủ mọi màu sắc của các lục địa. Với tôi, Úc đại lợi hiện không chỉ là một xứ sở “may mắn” nhờ tài nguyên dồi dào “chỉ cần đào lên bán mà ăn”. Đất nước này còn may mắn là bởi vì ở đây bất cứ ai, dù thuộc chủng tộc nào, cũng đều có cơ hội để vươn lên, thành đạt và có cuộc sống hạnh phúc. Một đất nước, cũng như Hoa kỳ, tuy chưa hoàn toàn gột rửa mọi vết tích của kỳ thị chủng tộc, vẫn là một nơi mà mọi thành phần xã hội đều có thể sống khoan nhượng và hài hòa.
Được sống trong một đất nước thanh bình như thế cho nên mỗi ngày tôi mới có thể đứng hàng giờ để chiêm ngắm cánh rừng, ngôi vườn và nhứt là bầy gia súc của tôi. Rồi mỗi ngày, chạy bộ dọc theo bờ hồ gần nhà để được hầu hết những người chạy ngược chiều chào lại và mỉm cười, tôi cũng đủ cảm thấy cuộc đời là đáng sống rồi. Tôi tin rằng Úc đại lợi, nhìn chung, là một nơi an toàn và nhân ái.
“Một nơi an toàn và nhân ái hơn”. Đây là niềm mong ước mà bà Aung San Suu Kyi đã bày tỏ trong bài diễn văn đọc tại Oslo, Na uy, hôm 16 tháng 6 vừa qua, 20 năm sau khi được trao tặng giải thưởng Nobel Hòa bình. Bà giải thích về hai chữ “nhân ái” như sau: “Trong những cái may của cơn hoạn nạn và xin nói ngay chúng không nhiều đâu, cái may nhất, quí giá nhất đối với tôi là bài học rút ra về giá trị của sự nhân ái. Mọi nghĩa cử nhân ái tôi nhận được, lớn hay nhỏ, đã thuyết phục tôi rằng sự nhân ái dù nhiều bao nhiêu cũng vẫn không đủ trong thế giới của chúng ta. Nhân ái là đáp lại một cách nhạy cảm và với tình người những khát vọng và nhu cầu của người khác. Một thoáng nhân ái thôi cũng làm nhẹ bớt một tầm hồn u uất. Nhân ái có thể làm đổi đời” (bản dịch của Đỗ Tuyết Khanh, Việt Luận 22/6/2012).
Đọc những lời trên đây tôi nghe như bà Aung San Suu Kyi muốn mách bảo rằng “nhân ái” là một tên gọi của hòa bình. Nhân ái cũng là hòa bình. Thật vậy, cuộc sống chung hòa bình và nhứt là niềm an bình chỉ có thể có khi con người biết vượt qua những rào cản trong bản thân như màu da, ngôn ngữ, văn hóa, chính kiến, địa vị và ngay cả tôn giáo để đến với người khác bằng tất cả tấm lòng nhân ái, cảm thông, khoan nhượng, bao dung và tha thứ...







Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét