Thứ Bảy, 7 tháng 5, 2016

Mưa tím


Chu Thập
29.4.16
Úc Đại Lợi vừa kỷ niệm lần thứ 101 ngày Anzac. Một trong những người sống sót cuối cùng của  khoảng 60 ngàn binh sĩ Úc và Tân Tây Lan tham gia  cuộc đổ bộ lên bờ biển Gallipoli, Thổ Nhĩ Kỳ ngày 25 tháng 4 năm 1915 là ông Alec Campbell đã qua đời năm 2002. Trong số những người hành hương mỗi năm sang Gallipoli hay tham gia các cuộc tưởng niệm tại khắp nơi ở Úc Đại Lợi, người ta chẳng còn thấy bóng dáng của bất cứ một nhân chứng sống nào của biến cố nữa. Vậy mà hàng năm, dù xuất phát từ gốc gác nào, dù thuộc chủng tộc, mầu da hay văn hóa nào, tất cả mọi người Úc, kể cả người Úc gốc Việt cũng đều cảm thấy biến cố lịch sử đó như một phần của cuộc sống của mình.
Đối với người Úc gốc Việt, ngày Anzac còn có một ý nghĩa đặc biệt như thế huống chi là “Tháng Tư Đen”. 41 năm là một quãng thời gian dài trong đời người. Nhưng với phần lớn người Việt tỵ nạn đang sống rải rác trên khắp thế giới, Tháng Tư Đen có lẽ chỉ như một ác mộng  mới xảy ra hôm qua.
Đó là cảm nghiệm riêng của tôi. Tháng Tư Đen  có 30 ngày thì ngày mùng một tháng tư đã bắt đầu được “đếm” tại Thành phố Nha Trang của tôi. Nếu có được sống đến 103 tuổi như cụ Campbell và dĩ nhiên nếu  không bị lú lẫn thì, nếu có ai hỏi tôi hình ảnh nào đáng ghi nhớ nhứt trong Tháng Tư Đen, tôi sẽ không ngần ngại  trả lời rằng đó là cơn mưa lạ lùng đổ xuống trên thành phố thân yêu của tôi.
Miền trung, nếu tính từ Bình Thuận trở ra đến Bình Định, có lẽ là vùng ít có mưa nhứt của Việt Nam. Mỗi năm, trời chỉ “hành” vài cơn lụt trong tháng 9 và tháng 10 Âm lịch, sau những trận mưa thúi đất kéo dài đến cả hai ba tuần lễ. Thời gian còn lại, tính từ tháng 3 cho đến tháng 8 âm lịch, là mùa khô. Bước vào tháng Tư Dương lịch, người ta đã nghe được từng cơn gió nồm đốt cháy cả thịt da. Vậy mà không hiểu sao, tôi vẫn còn nhớ rõ, suốt cả đêm mùng một tháng tư năm 1975, bầu khí ngột ngạt do làn sóng người di tản từ khắp nơi đổ về Nha Trang tạo ra  lại càng nóng rực lên để rồi sau đó biến thành một cơn mưa tầm tã kéo dài cho đến hết ngày mùng hai là ngày thành phố được “bên thắng cuộc” tuyên bố được hoàn toàn “giải phóng”. Suốt ngày mùng hai năm đó, tôi đã như nhà văn Trần Dần (1926-1997) của Thời Nhân Văn Giai Phẩm ngoài Bắc, “tôi bước đi, không thấy phố, không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ”. Dĩ nhiên, trong những ngày đầu khi các bộ đội “Cụ Hồ” trong bộ ca ki Nam Định và dép râu ngồi trên những chiếc xe tăng 54 ngơ ngác tiến vào thành phố và những ông “cách mạng 30” như “chó tháng Bảy” chạy loanh quanh thành phố để ca mừng chiến thắng, người ta chỉ mới thấy được trương lên cờ giải phóng. Nhưng có lẽ trong ánh mắt buồn thảm của tôi và của người dân Thành phố Nha Trang , “mưa sa” đã biến mọi thứ thành màu đỏ.
Nhìn đâu cũng thấy “mưa sa trên màu cờ đỏ” cho nên ánh mắt của tôi  có khi cũng bị hoa lên để chỉ thấy toàn màu đen của chết chóc và thất vọng. Dĩ nhiên, trong những ngày đầu, khi chứng kiến cảnh một vài chiếc oanh tạc cơ của Không lực Việt Nam Cộng Hòa từ phía nam bay ra để dội bom xuống Cầu Bóng hầu chận đường tiến của Cộng quân, một vài người, trong đó có tôi, vẫn còn ngây ngô để  nuôi chút hy vọng hão huyền là Thành phố Nha Trang sẽ được “giải phóng” ngược hay ít ra một số tỉnh ở phía Nam sẽ không rơi vào tay Cộng sản. Nhưng rồi cứ nghe các bài phóng sự và tường thuật của Đài BBC “dẫn đường” cho quân đội Bắc Việt tiến vào phía Nam, nhìn quanh quẩn tôi chẳng còn thấy có chân trời nào nữa. Bầu trời như sụp xuống. Cho tới lúc đó tôi chưa từng biết thế nào là thất tình hay trải qua bất cứ sóng gió nào trong cuộc sống tình cảm. Vậy mà không biết sao tôi lại cứ ngâm nga bài “Nửa hồn thương đau” để rồi cứ lập đi lập lại câu: “nhắm mắt chỉ thấy một chân trời tím ngắt”. Thật ra đâu có cần phải nhắm mắt mới thấy “một chân trời tím ngắt”. Mắt vẫn mở trao tráo mà chẳng còn thấy bất cứ một thể hiện hay biểu trưng nào của hy vọng, sự tin tưởng, niềm vui và nhứt là nụ cười của con người.
Trong nhiều biểu hiện của chết chóc trong thiên đàng cộng sản vừa mới chớm nở, cái chết của nụ cười hẳn phải là nét đặc trưng nhứt. Người ta không còn muốn cười vì nhìn đâu cũng thấy bế tắc. Người ta không còn muốn cười vì đã bắt đầu nhìn đâu cũng thấy kẻ thù.
Mới đây, một người Úc tên là Elliott Davies, không rõ do một cơ duyên nào đó đã được may mắn viếng thăm “thiên đàng cộng   sản” Bắc Hàn. Những hình ảnh ông thu thập được và được cho đăng tải trên báo Daily Mail và Đài ABC phần lớn được tập trung vào một chuyến đi xuyên qua một tuyến đường xe lửa ngầm tại Thủ đô Bình Nhưỡng. Đường xe lửa ngầm này được xem là sâu nhứt  thế giới và có lẽ cũng là một trong những tuyến đường đẹp và sạch sẽ nhứt thế giới. Có những chỗ phải mất đến cả 4 phút mới xuống đến trạm xe trong lòng đất.  Trong những hình ảnh tác giả thu được, ở bất cứ trạm nào người ta cũng chỉ thấy hình tượng của “cha già dân tộc” Kim Nhật Thành và con ông, Kim Chính Nhật. Trong những bức chân dung được tô vẽ rất hoành tráng hoặc những bức tượng chạm vàng óng ánh, đây là 2 khuôn mặt biết cười duy nhứt trong thiên đàng cộng sản Bắc Hàn. Còn những gương mặt của tất cả mọi hành khách trên bất cứ chuyến xe lửa ngầm nào được tác giả thu hình được, cũng đều trông giống như những người máy lạnh lùng, vô cảm và dĩ nhiên không biết cười. Trong các cuộc biểu dương công cộng, người dân Bắc Hàn có thể vỗ tay, có thể múa nhảy, có thể cười và ngay cả khóc. Nhưng tất cả mọi động tác đương nhiên đều được làm theo lệnh. Họ đúng là những cái xác chết biết đi.
Có lẽ đó là cũng là cảm nhận của tôi khi nhìn vào thiên đàng cộng sản vừa mới được khai sinh trong thành phố của tôi trong những ngày đầu tháng Tư năm 1975. Người dân đã bắt đầu biết thế nào là phải nhìn trước ngó sau trước khi mở miệng để nói hay ngay cả để cười. Tầm nhìn bị thu ngắn lại. Cường độ của giọng nói cũng phải bị giảm lại. Ánh mắt như bị che kín bởi toàn mầu đen cho nên  không còn dám tự nhiên trao gởi niềm tin nơi người khác. Tựu trung, buồn thảm là biểu lộ duy nhứt mà người dân trong chế độ cộng sản còn được tự do để bày tỏ.
41 năm đã qua, nhưng nhìn lại những ngày đầu tháng Tư trong thành phố thân yêu của mình, tôi vẫn thấy như mới hôm qua. Ngày nay, cũng như phần lớn những người tỵ nạn Việt Nam trên khắp thế giới,  tuy không thuộc thành phần ăn nên làm ra, nhưng tôi đã có cuộc sống ổn định. Lâu lắm rồi, tôi không còn thấy mình được ăn cỗ trong những giấc mơ. Tôi cũng chẳng còn bị công an rượt đuổi trong những cơn ác mộng. Ngay từ những đầu khi đặt chân đến đất nước đã đón nhận mình, tôi đã có thể đi từ nước này qua nước khác mà chẳng cần phải xin chiếu khán. Đến bất cứ một nơi xa lạ nào, tôi cũng chẳng cần phải đến bất cứ một văn phòng nào để trình “hộ chiếu” hay “đăng ký tạm trú”. Nói gì đến các quyền tự do khác. Chẳng có ông cảnh sát hay công an nào rình rập xem tôi có ăn nói “phản động” hay không.
Tôi có cuộc sống ấm no. Tôi hiểu được thế nào là tự do và dân chủ. Tuy nhiên, mỗi năm cứ mỗi lần “Tháng Tư Đen” trở lại, cứ mỗi lần nhớ lại những ngày đầu bước vào “thiên đàng cộng sản” và nhứt là ngày nay khi nhìn vào xã hội Việt Nam trong đó bao nhiêu người thân và đồng bào của mình vẫn đang tiếp tục quằn quại trong kiếp đọa đày, tôi lại thấy những đám mây đen của những ngày đầu tháng Tư trong thành phố thân yêu của tôi hiện về.
Biết chừng nào mới hết “mưa sa trên màu cờ đỏ”? 41 năm rồi, năm nào cứ Tháng Tư Đen trở về tôi cũng đều tự hỏi như thế và rồi tự nuôi hy vọng “trước sau gì cơn ác mộng cũng sẽ qua đi thôi”.
Sự ra đi bất thần của ca nhạc sĩ nổi tiếng Prince đã khiến cho cả thế giới thương tiếc. Trước đây thỉnh thoảng tôi có nghe nói đến tên ông, người đã từng 7 lần đoạt giải âm nhạc danh giá Grammy Awards và năm 2004 được “phong thần” trong bảo tàng viện danh giá “The Rock and Roll Fame and Museum”. Sở dĩ tôi chú ý đến người ca nhạc sĩ tài ba này là vì trong những ngày vừa qua truyền màn ảnh truyền hình, ca khúc có tựa đề ngộ nghĩnh “Purple Rain” (mưa tím) của ông cứ được phát đi phát lại. Có lẽ đây là ca khúc nổi tiếng nhứt của người nghệ sĩ này. Nghe tiếng Anh lõm bõm, tôi không hiểu hết được bài hát. Nhưng khi mở Google để đọc lại toàn văn ca từ, tôi  nhận thấy có những câu thật dễ thương. Chẳng hạn như những câu: “ Anh chỉ muốn thấy em tắm trong mưa tím....Anh chỉ muốn thấy em đi trong mưa tím... Cưng ơi, anh biết rằng thời gian đang thay đổi. Đã đến lúc tất cả chúng ta phải vươn lên một cái gì mới mẻ. Em cũng vậy”.
41 năm qua, nhìn lại lịch sử thế giới, tôi thấy có những điều bất ngờ xảy ra ngoài dự đoán của mọi người. Đáng chú ý nhứt dĩ nhiên là sự sụp đổ của các chế độ cộng sản tại Đông Âu năm 1989 và hai năm sau đó là sự cáo chung của chủ nghĩa cộng sản tại cái nôi sinh ra nó là Nga. Ngày nay, sau khi Nghị viện Âu Châu thông qua nghị quyết ngày 25 tháng 10 năm 2010, qua đó lên án những tội ác chống lại nhân loại của chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa này đã bị quăng vào sọt rác của lịch sử nhân loại. Chuyện xảy ra trong thế giới cộng sản tại Đông Âu và Nga tưởng như chỉ có trong mơ. Tôi thấy mình có đủ lý do để lạc quan khi nhìn về viễn ảnh của chế độ cộng sản tại Việt Nam. Tôi hy vọng và tin tưởng rằng chế độ cộng sản trước sau gì cũng sẽ sụp đổ trên quê hương. Niềm mơ ước duy nhứt và lớn nhứt còn lại của tôi trước khi nhắm mắt lìa đời là được nhìn thấy niềm vui vỡ bờ của người dân Âu Châu khi được giải phóng khỏi Đức Quốc xã và các chế độ cộng sản cũng được lập lại trên quê hương mình.
“Mưa tím” đã từng che kín cả bầu trời của thành phố Nha Trang của tôi trong những ngày đầu Tháng Tư Đen. Nhưng cũng như ca nhạc sĩ Prince đã nói đến sự thay đổi của thời gian, tôi cũng muốn tin tưởng lập lại câu nói quen thuộc: “Sau cơn mưa trời lại sáng”.
Không những chỉ trong cái nhìn về chế độ cộng sản tại Việt Nam, mà còn trong cả cuộc sống hàng ngày, xuyên qua những đám mây mù của thất bại, bệnh tật, khổ đau và ngay cả tuổi già, tôi cho rằng con người chỉ thực sự cảm thấy tự do khi biết nhìn về tương lai với niềm lạc quan và vui sống. Với tôi đó cũng là bí quyết để luôn được sống thanh thản và an bình.





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét