Thứ Ba, 12 tháng 5, 2015

Thắt Lưng Buộc Bụng

Chu Thập
9.8.11




“Thắt lưng buộc bụng là cụm từ mà tôi nghe được lần đầu tiên vào đầu thập niên 1970, khi Hoa kỳ bắt đầu rút quân khỏi Việt nam và thực hiện điều được gọi là “Việt nam hóa chiến tranh”. Lúc bấy giờ, Chính phủ Đệ nhị Cộng hòa ban hành chính sách “kiệm ước” và kêu gọi người dân “thắt lưng buộc bụng”. Thời đó, viện trợ Mỹ bị cắt giảm, sự phồn vinh giả tạo bị lật tẩy, vật giá cứ ào ào leo thang. Nhà nhà, người người được khuyến khích sống tiết kiệm.
Nghĩ lại, tôi thấy tội nghiệp cho người nhà quê của miền Trung tôi. Người giàu có phải thắt lưng buộc bụng là chuyện nghe hợp lý. Còn nghèo như người dân quê chỗ tôi, quanh năm ngày tháng lúc nào cũng nghèo kiết đói meo thì cần gì phải buộc, phải thắt lại. Mãi cho đến lúc bỏ nước ra đi, quan niệm về giàu nghèo của tôi vẫn còn gắn liền với hình ảnh của đầu và bụng. Quen thấy mấy ông Tây thực dân đầu sói, bụng phệ, tối sâm banh sáng sữa bò, tôi luôn nghĩ rằng chỉ có người giàu mới có cái đầu sói và cái bụng phệ.
Tôi còn nhớ, lúc nhỏ, lũ nhóc chúng tôi thường từ nhà quê đi bộ  mấy cây số mới đến “Thành” để mua giây cao su về làm ná bắn chim hay nhợ, cước, lưỡi câu để câu cá. Người chủ của cái tiệm tạp hóa mà chúng tôi thường ghé đến là một cụ già người Hoa đẹp lão, rất hiền hòa dễ thương. Không biết tên ông cho nên chúng tôi cứ dựa vào cái đầu hói của ông mà gọi ông là “ông già sói”. Cứ nhìn gương mặt lúc nào cũng đỏ au và cái bụng nước lèo có tầm cỡ của chú ba Tàu này thì ai cũng biết rằng ông là người giàu có. Kể cũng lạ, trong mắt trẻ thơ của tôi, hễ sói đầu thì thế nào cũng bụng phệ.
Nhắc đến “ông già sói” thì đứa trẻ nào trong làng tôi cũng đều nghĩ đến cái ông ba Tàu này, bởi vì trong cả làng, cả xã của tôi chẳng thấy có một ai sói đầu cả. Trẻ nhỏ như tôi vẫn cứ nghĩ rằng hễ sói đầu là giàu có. Mà làng tôi chẳng có ai giàu đến độ nứt đố đổ vách thì làm gì “sói đầu” được.
Đã không có người sói đầu, làng tôi cũng rất hiếm người có bụng phệ. Chẳng hiểu tại sao lúc nhỏ tôi vẫn “thán phục” và thèm cái bụng phệ. Trông cái bụng phệ “oai” làm sao, bởi vì chỉ có dân nhà giàu mới ăn nhiều và to bụng mà thôi. Mà lũ trẻ con nhà nghèo lam lũ bụng xẹp như tôi làm sao không mơ ước được giàu có.
Thành ra, chính sách “kiệm ước”, thắt lưng buộc bụng được Chính phủ Đệ nhị Cộng hòa ban hành là điều xem ra quá mỉa mai đối với làng tôi. Chưa từng sử dụng các tiện nghi của cuộc sống thành phố cho nên dân nhà quê cũng chẳng thấy mất mát bao nhiêu khi phải thắt lưng buộc bụng. Hồi đó, nhờ có một ông sĩ quan người làng đắc cử dân biểu quốc hội, cho nên “một người làm quan cả họ được nhờ”, làng tôi được “điện hóa”. Nhờ chút ánh sáng văn minh đô thị, đêm đêm cả làng tụ lại tại một vài nhà có truyền hình để xem ké cải lương. Nhà cửa bắt điện sáng trưng, nên ba ngày Tết thấy cũng sáng sủa và vui nhộn hơn. Một vài gia đình làm đủ thứ kem để bán cho dân làng. Nhưng sau 75, làng tôi có điện cũng như không. Không cần phải kêu gọi “thắt lưng buộc bụng” gì cả, chế độ mới vắt cạn lục phủ ngũ tạng của người dân. Cái bụng teo tóp lại đã đành, mà mắt mũi cũng chẳng còn đủ sức để mở ra “nhìn đời”. Tôi nhớ có lần về thăm ông già. Mới 5 giờ chiều mà ổng đã cho bật đèn nê-ông sáng trưng. Tôi hỏi sao phí điện thế. Cha tôi giải thích: không bật đèn sớm thì chập tối, mấy người có tủ lạnh “xuyệt” (tăng điện) một cái, là đèn đuốc hết lên nổi. Cỡ như cha tôi hay cái làng thời nào cũng nghèo xơ xác như làng tôi, chuyện thắt lưng buộc bụng xem ra chẳng có ý nghĩa gì cả nếu không muốn nói là mỉa mai.
Nhưng ngày nay, sống trong cái xã hội thừa mứa của cải vật chất này, tôi thấy cụm từ “thắt lưng buộc bụng” quả có ý nghĩa thực tế. Nói đến tiết kiệm là phải nói đến những cắt giảm cụ thể và trong cuộc sống con người, cụ thể nhứt không gì bằng cái ăn cái mặc. Tôi đã nhiều lần làm “tổng vệ sinh” cái tủ quần áo. Cứ mỗi lần lục lạo sắp xếp lại, tôi thấy mình “thực sự” giàu có, có quá nhiều thứ chẳng đụng tới bao giờ. Có những cái vì ham rẻ mua về chất đống, nay moi ra mới thấy chưa cắt tem giá.
Quần áo dư thừa đã đành, mà thức ăn trong tủ lạnh và tủ bếp thì lại càng ê hề hơn. Cứ vài tuần, nhà tôi lại phải lôi ra vài món thức ăn quá “đát” vì lỡ để ở một góc kẹt khuất tầm nhìn trong tủ lạnh. Còn cái tủ đựng nắm muối tiêu tỏi mì gói bún khô...thì cứ như nồi cơm Thạch Sanh, tôi chẳng bao giờ thấy cạn. Tôi tin rằng: nếu gặp thiên tai không đi mua sắm được, thì vẫn có thể sống được hơn cả tháng với cái đám thức ăn dự trữ trong mấy cái tủ này.
Nếu phải quyết tâm “thắt lưng buộc bụng” thì ba nơi trước mắt mà chúng tôi có thể làm tức khắc là cái tủ quần áo, tủ lạnh và tủ bếp. Chỉ cần biết vun vén một chút thì trong xã hội dư dật này, con người chẳng bao giờ hụt trước thiếu sau hay phải nợ nần chồng chất.
Xét cho cùng, “thắt lưng buộc bụng” cũng có nghĩa là thay đổi quan niệm về cuộc sống và cách sống. Người Việt nam nói đến “thắt lưng buộc bụng” không phải vì chuyện gì cũng quy về cái “ăn”. Thực ra, người Việt nam nói đến cái bụng mà không dừng lại ở cái bụng.
Tác giả Vĩnh Phúc, cựu chủ biên của Ban Việt ngữ Đài BBC, đã nêu lên câu hỏi: “không hiểu sao trong ngôn ngữ hàng ngày người Việt hay nói về cái bụng?” Theo ông, hình như theo lý luận của các cụ ta ngày xưa, mọi chuyện đều phát xuất từ cái bụng mà ra. Tốt, hay, cũng do cái bụng. Xấu, dở, cũng do cái bụng.Với các cụ, cái bụng không chỉ làm nhiệm vụ tiêu hóa, mà còn thay thế cho cả cái đầu nữa. Các cụ vẫn nói: “Nghĩ thầm trong bụng”. Đến như việc học hành, cũng lại chỉ dùng cái bụng mà thôi. Người thông minh được gọi là “sáng dạ”. Kẻ ngu ngơ, khờ dại bị chê là “tối dạ”. Bụng cũng thay thế công việc của trái tim khi nói người có “tấm lòng vàng” hay “tốt bụng”. Người học rộng tài cao thì được coi là có “một bụng đầy chữ nghĩa”. Chính vì vậy mà một cụ đồ Miền Nam đã nói xỏ đối thủ của một mình bằng một câu nói bóng gió thâm thúy: “Trong bụng lem nhem ba lá sách”.
Lá sách, ngoài nghĩa đen là bao tử, còn có nghĩa là “đọc được vài cuốn sách”. Chửi kẻ chỉ “lem nhem ba lá sách” là có ý bảo rằng người đó chẳng có bao nhiêu kiến thức và như vậy không phải là bậc tài trí.
Theo các cụ ta ngày xưa, bụng không chỉ tượng trưng cho chữ nghĩa, sự thông minh và kiến thức. Nó còn là điểm để người ta căn cứ vào mà quyết định về tư cách của một người. Chẳng hạn, ăn ở hẹp hòi thì bị cho là “xấu bụng”. Tác giả giải thích thêm: “ Những kẻ tiểu nhân lòng dạ hẹp hòi, lắm khi cứ tưởng rằng người quân tử cũng cùng một phường như mình, là bởi vì họ “suy bụng ta ra bụng người” vậy. Những quân tiểu nhân, có hành động bất chính, rất khó lường. Ngoài mặt, chúng làm ra vẻ tử tế nhân nghĩa, nhưng thực ra chúng là quân lừa dối tráo trở, rất có thể chúng sẵn sàng hại người khác nếu thấy có lợi. Cho nên người ta gọi bọn này là hạng “mặt người dạ thú” hay hạng người “ lòng lang dạ sói”. Với những phường nham hiểm này, thật rất khó đề phòng. Cho nên cổ nhân đã có câu: “Sông sâu còn có kẻ dò, lòng người nham hiểm ai đo cho cùng.” (x.Vĩnh Phúc, Phiếm 2006, Nxb Tam Vĩnh, London, England, trg 34-37)
Cha tôi là người rất xem trọng cái bụng. Dĩ nhiên, không phải theo nghĩa phàm phu tục tử. Là người không bao giờ biết đến thuốc Tây, cứ mỗi sau bữa ăn, ổng đều uống vài viên kẹo “lô hội” có bán trong các tiệm thuốc Bắc. Cha tôi lý luận rằng mọi thứ bệnh tật đều do cái bụng mà ra; giữ cho bộ tiêu hóa được điều hòa thì sẽ khỏe mạnh. Thành thử, nóng giận thì không tránh khỏi, nhưng cha tôi ít khi có bộ mặt “táo bón” đến độ không thể sống chung “hòa bình” với người khác. Mỗi lần nghĩ đến cha tôi, tôi thường tự nhủ: ráng giữ cho cái bao tử luôn được lành mạnh để có thể sống tử tế, dễ dãi và quảng đại với mọi người.
Về điểm này, tôi thấy bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trong nước cũng đồng quan điểm khi ông đề cao vai trò của cái bụng đối với sức khỏe của con người. Trong tuyển tập Cành Mai Sân Trước, ông bác sĩ này viết rằng: “Lý Lập Ông, một triết gia Trung quốc thế kỷ 16 đã viết trong Nhân Tình Ngẫu Hứng như sau: “Xét cơ thể con người, tai mắt mũi, tay chân, thân thể, hết thảy đều cần thiết... chỉ có hai cái không cần thiết mà Trời phú cho ta là cái miệng và cái bao tử, nguồn gốc của tất cả những cái lụy của loài người từ xưa tới nay. Có cái miệng với cái bao tử nên sinh kế mới hóa ra phiền phức, sinh kế phiền phức mới sinh ra mưu mô gian trá, mưu mô gian trá mới phải đặt ra hình pháp...”
Lâm Ngữ Đường có lẽ cũng đồng ý như thế nên ông viết: “Chúng ta có một cái bao không đáy gọi là bao tử...Nó ảnh hưởng đến văn minh nhân loại...Các hội nghị quốc tế căng thẳng đến thế nào, tới giờ cũng phải dừng lại để ăn...”  Tác giả ao ước: “Nếu con người có được cái diều như diều chim, có cái dạ dày của loài nhai lại chắc là không có tình trạng hiếu chiến, tàn ác vì loài ăn cỏ, ăn hạt đều hiền lành, loài ăn thịt đều hiếu sát”.
Tác giả Lâm Ngữ Đường cũng đưa ra một nhận xét thú vị: “Gà trống cũng thường đá nhau nhưng không phải vì thức ăn mà vì gà mái. Con người mà có cái diều như gà thì chỉ còn những cuộc chiến nho nhỏ chứ không phải cần đến chiến tranh lớn để xuất cảng đồ hộp.”  (Cành Mai Sân Trước, Đỗ Hồng Ngọc, nxb Văn hóa thông tin, 2004, trg 137-138)
Theo bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, ít có cơ phận nào trong con người bị hành hạ và bạc đãi cho bằng cái bao tử. “Nói chung, con người ít khi thương hại cái dạ dày của mình, chứ đừng nói đến chuyện biết ơn nó. Trái lại, người ta sẵn sàng nhồi nhét vào đó không thiếu thứ gì. Ta cũng sẵn sàng đổ vào đó hằng lít rượu đế, whisky, hằng két bia và vô số những chất độc hại khác như ...thuốc trừ sâu, giun đầu gai.v.v...” (sđd).
Những cái “bao tử” hiện đang sống tại Việt Nam hay Trung Quốc thì lại còn thê thảm hơn. Chuyện những hộp sữa dành cho thơ nhi chứa đầy những chất vô cơ độc hại không những làm khổ cái bao tử mà còn làm chết cả chủ nhân của nó là chuyện ai cũng biết. Bao tử ở hai nước này cũng không được thưởng thức “đồ thiệt” mà cứ phải ăn những thức ăn có hình thù mùi vị thơm ngon nhưng lại toàn là độc chất. Tiền bỏ ra mua thức ăn là tiền thiệt nhưng thực phẩm lại toàn “đồ giả” hay “đồ” đểu”. Một người bạn vừa đi du lịch Việt nam về, đã bị “dội ngược” khi trong một nhà hàng sang trọng có một cái “Phòng Nôn”. Có lẽ chẳng nơi đâu trên thế giới người ta bị ngộ độc thực phẩm, bị đi “té re” và đủ loại bệnh vệ đường tiêu hóa như hai nước này.
Nếu việc “hành hạ” cái bao tử chỉ là chuyện riêng tư, thì không thành vấn đề. Đàng này, sống trong xã hội loài người, tình liên đới trách nhiệm đòi hỏi ta phải nghĩ đến người khác. Đừng nói gì đến chuyện bệnh hoạn làm phiền người thân hay “táo bón” khiến luôn cau có với người xung quanh. Khi ốm đau chỉ vì không chịu “yêu thương” và chăm sóc cái bụng, ta lại làm tốn kém công quỹ và gây thiệt hại cho công ích.
Xét cho cùng, không cần gì phải chờ có khủng hoảng kinh tế, mà để có thể khỏe mạnh và cư xử tử tế với mọi người, thì “thắt lưng buộc bụng” lúc nào cũng phải là qui luật sống vậy.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét