Chu Thập
24.4.15
Tháng Tư năm nay có nhiều biến cố đặc biệt để tưởng nhớ. Là người
Việt tỵ nạn, tôi tưởng niệm đúng 40 năm ngày “Quốc hận”. Là công dân Úc, tôi
tham gia vào việc cử hành đúng 100 năm ngày Anzac. Đây hẳn phải là hai biến cố
quan trọng nhứt của tháng Tư năm nay. Nhưng
trong tình liên đới nhân loại, trong tháng Tư này, tôi
cũng nhớ đến điều đáng được gọi là
“tháng tư đen” không những của người Armeni, mà còn của cả thế giới nữa, bởi vì
kể từ tháng Tư cách đây đúng 100 năm, đã có hơn một triệu người Armeni
là nạn nhân của cuộc diệt chủng đầu tiên trong Thế kỷ 20 vừa qua do Đế quốc Thổ thực hiện.
Đọc lại lịch sử được hầu hết các sử gia ghi lại, tôi được biết rằng ngày 24
tháng 4 năm 1915, đúng một ngày trước khi diễn ra cuộc đổ bộ của quân đội đồng
minh lên Gallipoli, chính phủ của Đế quốc Thổ đã
ra lệnh bắt giữ khoảng 250 nhà trí thức và lãnh đạo của cộng đồng người Armeni tại Constantinople. Sau đó, trong và
sau thời Đệ nhứt Thế chiến, Đế quốc Thổ đã tiến hành một cuộc diệt chủng có hệ thống đối
với cộng đồng thiểu số Armeni đang sống trong phần đất do đế quốc này cai trị.
Con số nạn nhân bị sát hại được ước tính từ một đến một triệu rưỡi người: đàn
ông hoặc bị giết chết hoặc bị bắt làm lao công chiến trường ở những trận tuyến
nguy hiểm nhứt; đàn bà, trẻ con, người già và tàn tật bị bắt đi bộ trên một đoạn
đường dài dẫn đến Sa mạc Syria. Đói khát lại còn bị đánh đập và hãm hiếp, rất nhiều người chết dọc đường. Vì cuộc tàn sát
người Armeni đã được tiến hành một cách có hệ thống, cho nên năm 1943, một luật
sư người Ba Lan là ông Raphael Lemkin đã gọi đích danh hành động tội ác này của
Đế quốc Thổ là một cuộc diệt chủng. Sau cuộc sát tế người Do Thái do Đức Quốc Xã chủ xướng, cuộc diệt chủng
đối với người Armeni trong thời Đệ nhứt Thế chiến là một hành động tội ác được các sử gia nghiên cứu
và được thế giới nói đến nhiều nhứt. Cho
tới nay, đã có ít nhứt 23 nước chính thức nhìn nhận hành động giết người hàng
loạt này là một cuộc diệt chủng. Đây là cái nhìn chung của hầu hết các sử gia
và học giả về hành động diệt chủng trong lịch sử nhân loại.
Nhưng các chính phủ kế tục Đế quốc Thổ, cho tới
nay, vẫn tiếp tục phủ nhận sự thật lịch sử này. Hàng năm, cứ đến “tháng tư đen”
của dân tộc Armeni, Chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ lại bỏ ra không biết bao nhiêu tiền để
ngăn chận các cuộc nghiên cứu và các buổi lễ tưởng niệm cuộc diệt chủng. Theo
báo “The Los Angeles Times” số ra ngày 15 tháng 4 vừa qua, chính phủ Thổ còn “
đút lót” cả triệu Mỹ kim mỗi năm cho tổ chức có tên là “Gephardt Group” của Thượng nghị sĩ Richard Gephardt để vận động hành lang chống
lại các nghị quyết của Quốc Hội Mỹ về việc nhìn nhận cuộc diệt chủng. Năm 2007,
Chính phủ Thổ còn đe dọa nhiều lần sẽ cho đóng cửa Căn cứ Không quân Mỹ tại Thổ
Nhĩ Kỳ nếu Quốc hội Mỹ thông qua dự luật nhìn nhận cuộc diệt chủng.
Theo báo “The Los Angeles Times”, Hoa Kỳ không chỉ là mục tiêu duy nhứt
trong cuộc vận động của Chính phủ Thổ nhằm chối bỏ sự thật. Năm 2009, cộng đồng
người Thổ hải ngoại đã mở một chiến dịch nhằm yêu cầu ủy ban giáo dục của Thành phố Toronto, Gia Nã Đại rút hai chữ “diệt chủng” đối
với người Armeni ra khỏi một chương trình học về nhân quyền. Năm 2010, Chính phủ Thổ đã thành công trong việc tạo áp lực đòi hỏi
chính phủ Rwanda, Phi Châu, phải xóa bỏ cuộc diệt chủng đối với người Armeni khỏi
một cuộc điều trần về nạn
diệt chủng tại Liên Hiệp Quốc. Năm 2012, Chính phủ Thổ cũng đã thành công trong việc yêu cầu Anh Quốc
phải rút hai chữ “diệt chủng” đối với người Armeni ra khỏi một cuộc triển lãm của
một họa sĩ Armeni nổi tiếng là ông Arshile Gorky.
Nhưng Chính phủ Thổ càng hung hăng chối bỏ cuộc diệt chủng bao
nhiêu thì sự thật lại càng được chú ý và làm sáng tỏ bao nhiêu. Bất chấp những
đe dọa về ngoại giao của Chính phủ Thổ, mới đây Đức giáo hoàng Phanxicô đã công
khai tuyên bố rằng hành động tàn sát người Armeni do Đế quốc Thổ thực hiện cách đây 100 năm là cuộc diệt chủng
đầu tiên trong Thế kỷ 20. Và hôm thứ Tư 15 tháng 4
vừa qua, Nghị Viện Âu Châu, mặc cho
chính phủ Thổ có phản đối đến đâu, cũng đã thông qua một nghị quyết để tổ chức
tưởng niệm 100 năm cuộc diệt chủng người Armeni và yêu cầu Chính phủ Thổ hãy nhìn nhận biến cố này. Ngay từ năm 1987,
Nghị Viện Âu Châu đã thông qua một nghị quyết để khẳng định rằng cuộc tàn sát
người Armeni do Đế quốc Thổ thực hiện trong thời Đệ nhứt Thế chiến là một cuộc
diệt chủng. Cũng với nghị quyết này, Nghị Viện Âu Châu tuyên bố rằng việc Thổ
Nhĩ Kỳ không nhìn nhận sự thật là một hành động chối bỏ quyền của dân tộc
Armeni được có riêng lịch sử của họ. Trong một nghị quyết khác được thông qua hồi
năm 2005, Nghị Viện Âu Châu cũng xem việc Thổ Nhĩ Kỳ nhìn nhận sự thật lịch sử
này như một điều kiện để được gia nhập vào cộng đồng Âu Châu. Một số nước Âu
Châu, như Thụy Sĩ và Hy Lạp chẳng hạn, còn đi xa hơn khi kêu gọi buộc tội tất cả
những ai chối bỏ tội ác này.
Đối với thế giới, sự kiện hơn một triệu người Armeni bị Đế quốc Thổ tàn sát trong thời Đệ nhứt Thế chiến là một cuộc
diệt chủng. Nhưng đối với Chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ
hiện nay, con số nạn nhân không nhiều như thế và đó chỉ là hậu quả của một cuộc
xung đột giữa người Hồi giáo và các tín hữu Kitô hơn là một cuộc tàn sát do Đế quốc Thổ chủ trương.
Ôn lại sự kiện này, tôi sực nhớ đến câu nói thời danh của triết gia kiêm
nhà toán học và vật lý học người Pháp là
Blaise Pascal (1623-1662): “Bên này dãy núi Pyrénées là sự thật, còn bên kia là sai lầm” (vérité
en decà des Pyrénées, erreur au delà). Thật ra, trước ông, một triết gia Pháp
khác là Michel de Montaigne (1533-1592)
cũng đã nói rằng “dù cho những dãy núi này có
chứa đựng chân lý nào đi nữa, bên kia người ta vẫn xem là dối trá” (quelle vérité que ces montagnes bornent, qui est mensonge
au monde qui se tient au-delà). Có lẽ hai triết gia này chỉ muốn ghi nhận một sự
kiện là: việc nhận thức về một số sự thật
tùy thuộc vào nhiều yếu tố như địa dư, văn hóa, não trạng, thời kỳ v.v..Nói
cách khác, điều được xem là sự thật đối với một người vào một giai đoạn hay một
nơi chốn nào đó, thì có lẽ lại không là sự thật đối với một người sống vào một
giai đoạn khác
hay một vùng khác.
Điều này lại càng đúng hơn nếu người ta nhìn vào nhận thức của rất nhiều
người Việt Nam chưa từng nếm trải cuộc chiến tranh do những người Cộng sản phát
động và đã gây ra bao nhiêu đau thương tang tóc cho dân tộc.
Trong bài viết có tựa đề “Nỗi đau sẽ không dứt nếu không biết tại sao” (Việt Luận 17.4.2015), tác giả Trần Trung Đạo đã mở đầu với
sự kiện lịch sử “32 em học sinh trường tiểu học Cai Lậy, Định Tường, bị Việt Cộng
pháo kích chết lúc 2 giờ 55 phút trưa ngày 9 tháng 3 năm 1974”. Trước năm 1975,
việc Việt Cộng pháo kích “bừa bãi” vào bất cứ một nơi đông dân cư nào là chuyện
xảy ra như cơm bữa. Bị khủng bố, sát hại một cách vô tội vạ như thế cho nên chẳng
có gì phải ngạc nhiên tại sao người dân Miền Nam sợ Cộng sản đến độ liền sau
năm 1975, bằng mọi giá người ta phải trốn chạy chế độ dù có phải trả giá bằng
chính mạng sống của mình. Sự kiện có 32 em học sinh trường tiểu học Cai Lậy, Định
Tường bị sát hại do cuộc pháo kích bừa bãi của Việt Cộng gây ra là một sự thật
lịch sử. Nhưng theo tác giả Trần Trung Đạo, đối với đa số người Việt Nam sinh
ra và lớn lên sau năm 1975, hoàn toàn không hề có sự thật lịch sử này. Cũng
không hoàn toàn có sự thật lịch sử về cuộc Cải Cách Ruộng Đất tàn bạo dã man do chính ông Hồ Chí Minh phát động đã
khiến cho không biết bao nhiêu mạng người bị chết oan. Cũng không hề có sự thật
lịch sử về cuộc chiến do Đảng Cộng sản Việt Nam
gây ra khiến cho bao nhiêu xương máu của người dân hai miền Nam Bắc phải đổ ra. Cũng không hề có sự thật lịch sử về cuộc thảm
sát trong trận tổng công kích hồi Tết Mậu Thân tại Huế. Cũng không hề có sự thật
lịch sử về làn sóng vượt biên của người Việt Nam trong đó có vô số người phải bỏ
mạng trên biển cả. Cũng không hề có sự thật lịch sử về cuộc trả thù dã man đối
với quân đội, nhân viên cán chính của Việt Nam Cộng Hòa qua điều được gọi một
cách hoa mỹ là các “trại cải tạo”...Có biết bao nhiêu sự thật lịch sử về sự tàn
ác dã man của người Cộng sản mà chính họ đã phủ nhận và những người Việt Nam
sinh ra sau năm 1975, do bị nhồi sọ, đã không hề biết đến hoặc chỉ biết đến như
một sự tuyên truyền dối trá chống lại chế độ của người Việt hải ngoại.
Trong cuộc sống, có khi sự thật phức tạp đến độ cần phải được nhận thức từ
nhiều góc cạnh khác nhau. Nhưng có những sự thật hiển nhiên đến độ
nếu để cho lẽ thường và sự lương thiện hướng dẫn, con người không thể chối cãi
được.
Mới đây, tổ chức khủng bố Hồi giáo “IS” (Quốc gia Hồi giáo) đã tung lên các
trang mạng xã hội một thước phim cho thấy cảnh họ sát hại 30 tín hữu Kitô người
Libya. Người lãnh đạo cuộc hành quyết đọc lại một câu thần chú quen thuộc của Hồi
Giáo “Không có thượng đế nào khác ngoài Đấng Allah” và họ đã nhân danh Đấng
Allah ấy để sát hại những người không đồng tín ngưỡng với mình. Thế giới ngày
nay có thể tỏ ra khoan nhượng và tôn
trọng bất cứ niềm tin tôn giáo nào. Bạn tin chỉ có một thượng đế duy nhứt và vĩ
đại. Đó là chân lý của bạn. Phần tôi, đứng ở “bên này núi Pyrénées”, tôi có thể
không xem đó là một chân lý. Đó là quyền của tôi. Nhưng dù đứng ở phía nào, chúng
ta không thể không lên án bất cứ một
hành động dã man nào. Bất cứ một hành động dã man nào cũng đều đáng bị lên án
như một tội ác.
Đó là bổn phận đương nhiên của tôi và bạn.
Trong suốt cuộc chiến, những người cộng sản Việt Nam đã không ngừng lên án
“tội ác” của Mỹ Ngụy. Điều này chứng tỏ họ vẫn còn có một lương tâm để nhận biết
và phân biệt điều thiện với điều ác. Sở dĩ họ không nhìn nhận bao nhiêu tội ác
mà chính họ đã gây ra cho đồng bào ruột
thịt của mình là bởi vì họ chỉ muốn đơn thuần lấp liếm và chối bỏ mà thôi.
Sau 40 năm nhìn lại điều mà những người cộng sản Việt Nam gọi là “giải
phóng”, những ai còn có lương tri và biết tôn trọng lẽ phải đều nhận ra rằng
chính những người cộng sản mới thực sự là những người cần được giải phóng. “Bên
giải phóng” thực sự chính là những người dám nhìn nhận và tôn trọng sự thật. Bởi lẽ, như Chúa Giêsu đã nói: “Sự thật sẽ giải
thoát các ngươi” (Tin Mừng theo thánh Gioan 8,32). Bao lâu còn dối trá, nghĩa
là không nhìn nhận sự thật, thì bấy lâu con người vẫn còn sống trong nô lệ của
sợ hãi. Đây chính là bản chất của người cộng sản. Người cộng sản nhìn đâu cũng
thấy kẻ thù là bởi họ luôn sống trong dối trá, nghi kỵ và sợ hãi.
Đây là bài học mà tôi cũng nghiệm ra được cho chính bản thân mình: bao lâu
không chấp nhận sự thật và sống thật với chính mình, tôi vẫn chưa phải là một
con người tự do thật sự.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét