Thứ Hai, 25 tháng 5, 2015

Kim Cương và Máu


Chu Thập
23.8.11



Mấy ngày vừa qua, tôi cứ bị ám ảnh bởi hình ảnh của em bé gái 4 tuổi gốc Sudan, bị con chó “Pitbull” của một người hàng xóm ở khu ngoại ô St Albans, Melbourne cắn chết. Tin này chỉ được các đài truyền hình chiếu lên như một tin phụ và được báo chí đăng ở trang trong. Nhưng với tôi đây là một tin khủng khiếp, lẽ ra phải là tin hàng đầu có sức lay động cả nước Úc đại lợi.
Tự nhiên, tôi thấy phẫn nộ. Trước tiên là phẫn nộ với chó. Tôi không bao giờ chấp nhận chủ trương hành hạ súc vật một cách vô lý, nhưng tôi cũng chưa bao giờ thương chó và xem chó như một thứ thú cưng đến độ nâng niu âu yếm. Ở nhà quê tôi, chó được nuôi để giữ nhà, làm công tác vệ sinh cho trẻ con và nếu cần thì cũng phải góp phần vào việc cải thiện các bữa ăn vốn thiếu chất đạm của người nhà quê nghèo. Trong cái nhìn rất thực dụng của người dân quê của tôi, chó chỉ có thể là bạn với củ sả, củ riềng mà thôi.
Lúc nhỏ, tôi ghét chó vì không những bị chó nhà giàu rượt đuổi mà còn bị cắn trộm nữa. Thời “chó chết” sau 75, tôi cũng như mọi người Việt nam lại càng ghét “lây” chó hơn vì tên của nó gắn liền với cái đám “chó vàng” chỗ nào cũng có mặt. Ghét nhứt là lúc vượt biên: chó thiệt càng sủa inh ỏi thì “chó vàng” càng dễ tóm cổ dân vượt biên.
Tưởng thoát khỏi Việt nam là quên được những hình ảnh không mấy tốt về chó. Nào ngờ đến Pháp, thấy ông tây bà đầm dắt chó đi đầy đường phố giữa thủ đô Ánh sáng, phóng uế khắp nơi, có ghét không?  Gai mắt nhứt là thấy mấy cô cậu chó cứ nằm chễm chệ trên bộ sa lông như thượng khách. Nhưng chướng nhứt là thấy chúng nó lại bắt chước cái thói “chỗ nào cũng hôn hít” của người Pháp, để liếm mặt liếm môi người trong nhà. Đúng là “chơi với chó, chó liếm mặt”. Riêng tôi, cảm thấy bị xúc phạm nhứt là trong các phi trường: cái thứ chó “nghiệp vụ” cứ đến “hửi hửi” vào người mình như thể người mình hôi hám lắm. Ngay cả cái thứ chó không làm nghiệp vụ cũng vậy: nơi các lối đi bộ trong các công viên hay dọc theo bờ hồ chỗ tôi ở, cứ mỗi lần đi ngang qua tôi, thì cái bọn chó mà những người thừa tiền thừa bạc nuôi trong nhà dắt đi dạo, thế nào cũng xáp lại đưa mũi lướt qua một vòng xung quanh tôi. Có con còn muốn ăn tươi nuốt sống mình là khác! Ngứa con mắt nhứt là khi thấy mấy ông bà chủ lắm khi già yếu đi không vững mà phải cúi mình cầm bao hốt cái thứ thối tha hôi hám nhứt mà mấy cô cậu chó thải ra.
Tôi cũng có một lý do khác để ghét chó: tôi lỡ nuôi mấy con gà trống, sáng sáng gáy vài tiếng để đánh thức người ta dậy đi làm, vậy mà bị mấy người hàng xóm trưng luật của Hội đồng thành phố ra mà nói xa nói gần. Trong khi đó, trong xóm có đến cả năm bảy con chó, nhứt là cái giống “berger” to mồm, sủa inh ỏi cả đêm thì chẳng thấy ai nói gì cả. Thấy có bất công không?
Thực ra, tôi thấy mình đúng là giận cá băm thớt. Chó là thú vật thì có tội tình gì đâu. Hơn nữa, cầm tinh con chó, lẽ ra tôi phải “thương” chó mới đúng. Trăm tội cũng đều do con người mà ra cả. Người ta cưng chó và quí chó đến độ xem thường con người. Nhứt là cái gọi là “Phong trào bảo vệ súc vật”. Trong khi mỗi buổi tối vẫn còn đến cả trên 9 trăm triệu người trên thế giới đi ngủ với cái bụng trống rỗng thì ở những nước thừa mứa của cải vật chất, người ta tốn không biết bao nhiêu tiền bạc cho các con thú cưng, người ta dám xả thân hy sinh để bảo vệ vài con thú quý hiếm. Lố bịch nhứt vẫn là cái cảnh có người khỏa thân để tranh đấu cho quyền của thú vật, trong khi đó chẳng thấy ai dám có một hành động như thế để bảo vệ không biết bao nhiêu thai nhi còn trong lòng mẹ bị luật pháp cho phép sát hại.
Xã hội càng tân tiến xem ra con người càng giả nhân giả nghĩa.
Hình ảnh của em bé gái người Sudan bị con chó “Pitbull” cắn chết ngay trong nhà của mình, không thể không gợi lên cho tôi bao nhiêu cảnh bất công, khốn khổ, đọa đày của người da đen ở Phi Châu cũng như tại nhiều nước khác trên thế giới.
Ngày nay, có lẽ nhờ hình ảnh hào hùng của những nhà tranh đấu cho nhân quyền như cố mục sư Martin Luther King, như cựu tổng thống Nam Phi Nelson Mandela hay sự duyên dáng và tài diễn xuất của một số tài tử da đen như Whoopi Golberg, như Denzel Washington, như Eddie Murphy, như Wesley Sniper hay tài trí của những người như nữ hoàng hội thoại truyền hình Oprah Winfrey, cựu ngoại trưởng Mỹ Condoleezza Rice và nhứt là tổng thống Barack Obama...tôi đã gột rửa được cái thành kiến xem thường người da đen trong tôi. Tôi không biết nên trách mẹ tôi hay chính cái đạo công giáo của tôi, bởi vì chính vì cái hình ảnh của một thằng quỷ đen thui lui có đuôi dài mà mẹ tôi treo trong nhà để nhắc nhở con cái về sự hiện hữu của ma quỉ và hỏa ngục, mà trong ánh mắt trẻ thơ của tôi, “da đen” là một cái gì dơ bẩn xấu xa. Hỏa ngục là nơi giam cầm ma quỉ, mà ma quỉ thì “nhứt định” phải đen đủi như cột nhà cháy mà thôi. Quen đồng hóa da đen với ma quỉ, cho nên thời  còn  để chỏm, hễ thấy mấy anh lính lê dương (légionnaire) đánh thuê người da đen trong quân đội viễn chinh Pháp là tôi chạy có cờ, cứ như họ là hiện thân của ma quỉ. Ngay cả thời quân đội Hoa kỳ tham chiến tại Miền Nam Việt Nam, mấy anh Mỹ đen, dù có đô la rủng rỉnh đi nữa, cũng vẫn  bị tôi “nhìn xuống” (look down). Cho tới thời đó, với tôi, đàn bà Việt nam lấy Tây thì chẳng ra gì, mà lấy Mỹ đen thì lại càng bị khinh rẻ hơn.
Nghĩ lại cái thời “ngu muội” ấy, tôi thấy cái nhìn của mình về người da đen quả là bất công. Phải nói rằng ít hay nhiều tôi đã bị đầu độc bởi cái đám người mà tổ tiên chúng ta gọi một cách chí lý là “bạch quỷ”. Hễ gót giày của các đám “bạch quỷ” ấy dẫm đến đâu là có đau thương tang tóc đến đó. Chuyện bắt người khác làm nô lệ và xem con người như một hàng hóa để đổi chác, buôn bán chỉ xảy ra trong cái nền văn minh “bạch quỷ” ấy. Nói gì cho xa. Cứ nhìn lại những gì đã diễn ra trên đất Úc đại lợi này cách đây hai trăm năm cũng đủ thấy sự tàn bạo vô nhân tính của họ: bao nhiêu người thổ dân bị săn bắn, tàn sát chẳng khác nào thú rừng. Nhưng vô nhân đạo và khủng khiếp nhứt vẫn là thảm cảnh của những người nô lệ da đen từ Phi Châu bị người da trắng săn lùng, mua bán và đày đọa sang Tân thế giới (nước Mỹ ngày nay). Giờ đây, chế độ nô lệ đã bị bãi bỏ, nhưng ngoài đầu óc kỳ thị, cái tâm thức nô lệ hóa vẫn còn tồn tại nơi một số người da trắng. Một số người da trắng vẫn tiếp tục sống trên mồ hôi, nước mắt và ngay cả xương máu của những người da đen. Tôi đặc biệt nghĩ đến những thứ nữ trang, đá quý mà nhiều người ở các nước giàu có đang mang trong người. Họ có biết rằng những thứ trang sức ấy là kết tinh từ nước mắt và máu của bao nhiêu người nghèo khổ ở những nước nghèo như Phi Châu không?
Cách đây không lâu, trong loạt phim tài liệu có tựa đề “Tropic of Capricorn” (Nam Chí Tuyến) được chiếu trên đài truyền hình SBS, phóng viên của đài BBC đã đưa khán giả đi thăm một số quốc gia nghèo của Phi Châu. Khi đi ngang qua Mozambique, một người hướng dẫn viên địa phương đã hãnh diện giới thiệu một trung tâm nghỉ mát sang trọng nằm trên một hòn đảo. Ông cho biết khi đóng cuốn phim “Blood Diamond” (viên kim cương màu máu), diễn viên chính là Leonardo di Caprio đã từng đến nghỉ mát tại hòn đảo này.
Cuốn phim được đặt trong bối cảnh của cuộc nội chiến tại Sierra Leone vào cuối thập niên 1990. Solomon Vandy, một ngư dân nghèo đang nuôi mộng một ngày kia đứa con trai của mình tên là Dia Vandy sẽ ăn học thành tài và trở thành một bác sĩ. Nhưng giấc mơ của ông tan vỡ khi các phiến quân tràn vào làng, bắt cậu con trai mang đi và cưỡng bách phải làm việc trong một mỏ kim cương. Solomon tình cờ tìm thấy một viên kim cương màu hồng. Ông tìm cách chôn dấu viên kim cương. Nhưng hành động của ông đã không qua mắt được viên chỉ huy của phiến quân. Nhưng ngay lúc đó, các phiến quân lại bị tấn công và Solomon bị quân đội chính phủ bắt giữ cùng với viên chỉ huy. Vào tù, viên chỉ huy này đã tiết lộ cho các tù nhân biết rằng Solomon là người đã cất dấu viên kim cương.
Theo dõi câu chuyện, một tù nhân da trắng tên là Danny Archer (do Leonardo di Caprio thủ diễn) nhận ra đây là cơ hội ngàn vàng của ông. Archer là một tay săn đá quý người Zimbabwe. Ông bị giam tù vì bị bắt quả tang đang chuyển lậu kim cương từ Sierra Leone sang Liberia và từ đó bán cho một công ty kim cương lớn tại Nam Phi. Nhờ có tiền, Archer đã mua chuộc được các quản giáo để thả ông và Solomon ra khỏi tù. Trên đường đi tìm viên kim cương mà Solomon đã cất giấu, Archer đã gặp một một nữ ký giả người Mỹ tên là Maddy Bowen. Cô này muốn giúp Solomon tìm lại đứa con của mình. Nhưng cô chỉ đồng ý giúp Archer và Solomon tìm lại nơi cất dấu viên kim cương với điều kiện là Archer phải giúp cô điều tra về thị trường buôn bán kim cương. Mục đích của nữ ký giả này là phơi bày trước thế giới cuộc chiến phi lý làm đổ máu không biết bao nhiêu người nghèo vô tội ở Phi Châu, chận đứng cuộc viện trợ khí giới từ bên ngoài và chấm dứt các cuộc cách mạng bạo động.
Cuốn phim cho thấy cảnh người da đen phải làm việc trong những điều kiện tồi tệ và là nạn nhân của những cuộc bạo động xoay quanh tham vọng tranh giành các mỏ kim cương của nhiều phe phái. Cuốn phim đã kết thúc bằng cái chết bi thảm của Archer. Nhưng đây cũng là cảnh cảm động nhứt trong cuốn phim, bởi vì trong giây phút cuối đời, Archer đã nhận ra cuộc chiến tranh phi lý mà ông đã tham gia vào. Về phần mình, Solomon đã tìm lại được viên kim cương, trao nó cho một công ty kim cương ở Nam Phi để đổi lấy sự đoàn tụ với vợ con và được đưa sang Anh quốc. Riêng nữ ký giả Bowen, với đầy đủ hình ảnh và chứng cớ, đã trình bày trước công luận thế giới về cuộc chiến kim cương.
“Blood Diamond” không  những ám chỉ  loại kim cương quý màu hồng, mà còn gợi lên máu của không biết bao nhiêu người da đen được xử dụng trong kỹ nghệ khai thác kim cương. Nhìn những hạt kim cương lóng lánh trên ngón tay, trên cổ, trên vương miện của những người quyền thế và giàu có tại các nước Tây phương, tôi không thể không nghĩ đến máu của không biết bao người dân Phi Châu hay dân nghèo trên khắp thế giới. Xem xong cuốn phim, tôi không thấy kim cương mà chỉ thấy máu. Trong mắt tôi, có lẽ hạt kim cương nào cũng đều vấy máu cả.
Xét cho cùng, có biết bao nhiêu di tích lịch sử trên khắp thế giới mà khách du lịch trầm trồ khen ngợi, đã được xây dựng bằng chính mồ hôi, nước mắt và máu của những người nghèo khổ. Tôi chưa có dịp tham quan bất cứ một kim tự tháp nào của các vua chúa Ai cập thời cổ. Nhưng tôi tin chắc rằng đó không chỉ là công trình kiến trúc của những bậc tài trí, mà còn là vết tích của bao nhiêu xương máu của những người bị bắt làm nô lệ. Ngay cả khi chiêm ngắm một thánh đường cổ nguy nga tráng lệ, tôi cũng thường có ý nghĩ ấy. Biết bao nhiêu người nghèo đã góp công sức, mồ hôi, nước mắt và máu vào công trình này.
Tôi cũng liên tưởng đến những thứ hàng hóa sang trọng được chế tạo tại các nước nghèo và được mang sang các xã hội giàu có. Những đôi giày Nike đắt tiền mà người giàu mang chẳng hạn, đã được may bằng chính những bàn tay khô cằn, đói ăn của những công nhân được trả bằng một đồng lương chết đói tại các nước nghèo. Có ai biết cho rằng những chiếc nịt hay ví tay đắt tiền làm bằng da rắn là giá máu của không biết bao nhiêu người thợ lặn nghèo tại những nươc kém phát triển.
Hình ảnh của em bé gái người Sudan bị chó Pitbull cắn chết ngay trong nhà mình khiến tôi nhớ đến những nghèo ấy và nhứt là cái đám đông 12 triệu người miền Đông Phi châu đang chết đói vì hạn hán. Trước hình ảnh ấy, tôi không thể không cảm thấy bị lương tâm dày vò cắn rứt mỗi khi tôi “tiêu xài” một cách vô ý thức và nhắm mắt làm ngơ trước nỗi khổ đau của người đồng loại.
Còn cái “nhu cầu” trang sức bằng những thứ xa xỉ từ công sức bất công, tôi cũng xin miễn hẹn cả kiếp sau.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét