Chu Thập
15.5.15
Tôi thường đo lường tuổi già của mình bằng nhiều cách. Tóc không cánh mà cứ
từ từ bay đi đâu hết. Đó là dấu hiệu rõ ràng nhứt của tuổi già. Gặp một người rất
thân quen, nhưng cố moi mãi trong ký ức mà vẫn không nhớ được tên của người đó.
Một khi bộ nhớ đã có vấn đề thì rõ ràng là mình đã già rồi chớ còn gì nữa. Nói
gì đến thể lực. Cách đây vài năm, tôi còn ưỡn ngực, vươn
vai cố gắng sải bước như thanh niên khi chạy bộ mỗi buổi sáng. Bây giờ thì lực
bất tòng tâm. Cứ chạy vài bước thì phải dừng lại để lấy sức và hòa nhập vào
phái đoàn “lực sĩ già” để vừa đi vừa nói chuyện trên trời dưới đất. Chỉ có điều
khiến tôi phải ngạc nhiên một cách thú vị: tôi thấy dường như khả năng thông cảm
của mình có phần gia tăng. Tôi không biết
có phải hễ già thì người ta dễ cảm thông và tha thứ không. Với riêng tôi thì dường
như càng thêm tuổi tôi càng thấy cái nhìn của mình về cuộc đời và nhứt là về người
khác bao dung hơn, thông thoáng hơn; tôi bớt câu nệ và chấp nê hơn. Thời tuổi
trẻ, cứ mở miệng ra là tôi “khẳng định”. Những “chân lý” tôi tiếp nhận được từ sách vở, từ các tín điều của tôn giáo, từ luân lý Khổng Mạnh,
từ truyền thống dân tộc...chỉ có hai mầu trắng đen mà thôi. Trong suy nghĩ đơn
giản khi tôi còn trẻ, sự thật phải trắng
ra trắng, đen ra đen; ai không theo tôi là chống lại tôi. Nói chung, thời tuổi
trẻ, tôi thấy mình dễ có thái độ cực đoan và sẵn sàng ăn thua đủ với bất cứ ai
không đồng lập trường với mình. Nhìn lại cái thời bồng bột, dại khờ và nông nổi của mình, tôi hiểu được tại sao hầu hết những thành phần
gia nhập vào tổ chức khủng bố “Quốc gia Hồi giáo”(IS) đều là giới trẻ.
Sở dĩ một người già như tôi dễ có thái độ cảm thông và cái nhìn thông
thoáng hơn là vì khi ngoái cổ nhìn lại quá khứ, nhứt là thời tuổi trẻ, tôi thấy
mình đã sống hời hợt, nông nổi, cố chấp trong những thành kiến của mình. Tôi
quên mất bài học nền tảng nhứt trong triết học được triết gia kiêm nhà toán học
người Anh Bertrand Russell (1872-1970) dẫn giải trong chương đầu tiên của cuốn
sách nổi tiếng của ông “The Problems of Philosophy” (Những vấn đề triết học). Đây là một tác phẩm cổ điển, xuất
bản lần đầu tiên năm 1912, nhưng theo tôi vẫn còn giá trị. Giá trị không phải
vì đã “khẳng định” được một số chân lý nền tảng, cho bằng gợi lên một số vấn đề
nền tảng khiến phải “động não” để suy nghĩ. Tôi nghĩ rằng trước năm 1975, bất cứ
sinh viên triết học nào cũng đã xem đây như “kinh nhựt tụng” của họ. Trong
chương đầu tiên có tựa đề “ngoại diện và thực tế” (appearance and reality), triết gia Russell mời gọi các
sinh viên hãy khảo sát một vật rất đơn giản trước mắt là cái bàn. Theo ông, nếu
cùng một lúc, nhiều người cùng nhìn vào cái bàn thì sẽ chẳng có hai người cùng
nhìn thấy những mầu sắc như nhau. Bởi lẽ không ai đứng nhìn cái bàn từ một góc cạnh như nhau và bất cứ sự thay đổi góc nhìn nào cũng đều kéo theo sự thay đổi trong cách phản
chiếu của ánh sáng. Với con mắt thường thì những khác biệt ấy không quan trọng,
nhưng với một nhà họa sĩ chẳng hạn thì đó là điều tối quan trọng. Nhà họa sĩ
“thấy” được điều mà con mắt thường không thấy. Thật ra, không chỉ riêng với ánh
mắt của người họa sĩ, mà do cách cấu tạo và chỗ đứng của mỗi người, cùng một sự
vật vẫn có thể được nhìn thấy với nhiều mầu sắc khác nhau.
Áp dụng bài học này vào cách tiếp nhận mầu sắc của sự vật, tôi hiểu được tại
sao dạo tháng Hai vừa qua, dân cư mạng đã xôn xao bàn tán về sự thay đổi mầu
sắc kỳ lạ của một chiếc áo cưới của một cô dâu bên Tô Cách Lan. Theo câu chuyện,
một tuần trước hôn lễ, mẹ của cô dâu gởi
cho cô hình của chiếc áo mà cô định mặc
trong đám cưới. Tấm hình đã đưa cô dâu và chú rể vào một trận chiến tranh về mầu
sắc: người thì bảo nó có mầu xanh và đen, kẻ lại bảo nó có mầu trắng và vàng.
Không tin vào mắt mình, họ đã đưa tấm hình lên mạng để nhờ bạn bè phân giải. Cuộc
chiến về mầu sắc lại tiếp diễn qua bạn bè của họ: một bên chỉ thấy mầu xanh và
đen, một bên lại khẳng định rằng nó chỉ có mầu trắng và vàng. Có người còn bảo
đã thấy ngay cả mầu xanh lá cây và mầu cam. Cuộc chiến về mầu sắc đã không mấy
chốc lan truyền đi khắp thế giới. Cuối cùng, các chuyên gia đã phải can thiệp để
giải thích rằng tất cả những cái nhìn khác biệt về cùng một chiếc áo cưới ấy đều
do cấu tạo của con mắt của mỗi người, về thời khắc trong ngày cũng như về điều
kiện ánh sáng trong đó mỗi người nhìn vào nó.
Câu chuyện trên đây đưa tôi trở lại với bài học triết học nền tảng của triết
gia Russell. Cách đây cả trăm năm, triết gia kiêm nhà toán học nổi tiếng
này đã “mở lòng” các sinh viên của ông
khi mời gọi họ khảo sát mầu sắc của cái bàn để thấy rằng tùy theo góc độ và điều kiện ánh sáng, người ta có thể nhận ra nhiều
mầu sắc khác nhau của cùng một cái bàn. Điều này có nghĩa là đằng sau bề mặt của sự vật, còn có những điều ẩn khuất mà sự
nhận thức hời hợt của chúng ta không nắm bắt được.
Vũ trụ, vật chất và nhứt là cuộc sống con người có quá nhiều bí ẩn. Do đó,
theo triết gia Russell, nếu không giải đáp được mọi vấn đề của cuộc sống thì ít
ra triết học cũng tạo ra được sự thích thú khi gợi lên nhiều câu hỏi để suy tư
và nhứt là cho thấy sự kỳ lạ nằm dưới bề mặt của những điều thông thường nhứt
trong cuộc sống. Nói một cách nôm na, “thấy vậy mà không phải vậy”, đó là bài học
nền tảng nhứt của triết học mà tôi đã học được ở tuổi thanh niên, nhưng lại ít
khi muốn áp dụng vào cuộc sống thực tế.
Tôi nghĩ có lẽ đây cũng là bài học mà nhà thơ Bùi Giáng (1926-1998) muốn nhắn
gởi qua bài thơ có tựa đề “Đừng tưởng”
của ông. Lời thơ đơn sơ, nhưng chuyên chở những ý thâm sâu:
“Đừng tưởng cứ núi là cao
Đừng tưởng cứ dưới là ngu
Cứ Trên là Sáng cứ Tu là Hiền
Đừng tưởng cứ đẹp là tiên
Cứ nhiều là được cứ tiền là xong
Đừng tưởng không nói là câm
Không nghe là điếc không trông là mù
Đừng tưởng cứ Trọc là Sư
Cứ Vâng là Chịu cứ ừ là Ngoan
Đừng tưởng có của đã sang
Cứ im lặng tưởng là Vàng nguyên cây
...
Đừng tưởng cứ thấp là khinh
Cứ chùa là tĩnh cứ đình là to
Cứ già là hết hồ đồ
Cứ trẻ là chẳng âu lo buồn phiền
Đừng tưởng cứ quyết là nên
Cứ mạnh là thắng cứ mềm là thua
Dưa vàng đừng tưởng đã chua
Sấm rền đừng tưởng sắp mưa ngập trời....”
Một người đã viết được những câu thơ như trên chắc chắn chỉ “giả điên” chứ
không thể nào là một người điên thật. Có chăng “điên” chỉ là ngoại diện của một
thi sĩ có con mắt tinh tường để nhìn thấy những điều mà người khác không nhìn
thấy mà thôi.
Bài thơ “Đừng tưởng” của thi sĩ Bùi Giáng khiến tôi nhớ đến một cái nhìn
“thông suốt” của một vị thiền sư nọ. Chuyện kể rằng: “Một hôm, một đệ tử đem đến
cho vị thiền sư già, người đã sáng lập viện và dạy dỗ cho nhiều thế hệ thiền
sinh, một tin buồn như sau: “Thưa sư phụ, đại sư huynh
Vô Định, người môn sinh xuất sắc sẽ kế tục Ngài, đã lặng lẽ bỏ đi vào đêm qua”.
Nghe xong, vị thiền sư già bình thản trở lại với công việc đang làm. Ông chẳng
để lộ mảy may xúc động hay buồn phiền. Người đệ tử lòng chưa hết bàng hoàng, liền hỏi:“Thưa sư
phụ, sư huynh Vô Định là người đệ tử đầu tiên của Ngài. Sư huynh lại đức độ hơn
người, có thể gánh vác trọng trách mai này. Nay sư huynh bất thần bỏ đi, sư phụ
không thấy mất mát sao?” Vị thiền sư già ôn tồn giải thích:“Sư huynh của con chỉ
dời chỗ ở chứ không bị tiêu diệt, sao gọi là mất mát?”
Người đệ tử vẫn thắc mắc:“Nhưng thưa sư phụ,
sư huynh ra đi mà không có lý do chính đáng, nếu mọi người biết được, đệ tử e
rằng thiên hạ sẽ thị phi đàm tiếu nhiều điều gây tổn hại đến thanh danh của sư
phụ, sư phụ nghĩ sao?” Vị
thiền sư hỏi liền hỏi lại: “Thanh danh thì cũng là Hư
danh. Người ta sanh ra thanh danh rồi thì người ta cũng có thể đổi nó thành xú
danh. Sao con lại quan tâm?”
Người đệ tử vẫn chưa hết lo
âu:“Vậy thì sư phụ không lo cho sư huynh sao? Liệu sư huynh có an lạc khi rời
bỏ nơi này không?”
Vị thiền sư ung dung trả
lời:“Sư huynh của con phải thấy rằng tâm không còn an lạc khi ở đây thì mới ra
đi. Ta chẳng hề lo lắng. Nơi nào an lạc ắt đấy là nhà con ạ”.
Người đệ tử vẫn chưa hết ấm
ức:“Thưa sư phụ, xin cho con hỏi một câu cuối: sư phụ không thấy một chút khó
chịu nào hết khi sư huynh của con làm một quyết định quan trọng như thế mà
không hề bàn bạc với sư phụ sao?”
Vị thiền sư già cười một
cách hiền hòa:“Con ơi, trên đời này chẳng có gì quan trọng hơn sự an lạc của
mỗi chúng sanh. Con nên nhớ rằng, con phải tự đi tìm an lạc cho chính mình. Ta
hiểu và thông cảm với sư huynh của con. Con nên nhớ rằng, trong cuộc đời của
mỗi con người, có những quyết định mà ta không thể nào bàn bạc với ai khác
ngoại trừ với chính cái TÂM của mình .”
Những
bậc chân tu thường là hiện thân của cái cốt lõi trong tôn giáo. Và cái cốt lõi
của tôn giáo, theo tôi, chính là sự cảm thông. Cảm thông là cùng chịu đựng,
cùng đau khổ với người khác. Xét cho cùng, cảm thông là dám “xỏ chân” vào chiếc
giày thối của người khác để không những phải hiểu, mà còn cảm nhận được sự khắc
khoái, nỗi đau của người khác. Đây chính là thể hiện đích thực của “đạo đức”.
Hay nói theo ngôn ngữ của ông bạn họa sĩ của tôi, đây mới thực sự là “đạo
hạnh”.
Đó là
thứ “đạo hạnh” mà có lẽ nhà thơ Bùi Giáng cũng muốn nhắn gởi cho đời khi kết
thúc bài thơ “Đừng Tưởng” của ông. Tôi chép lại để tự nhắc nhở mình cần phải
vượt qua sự đánh giá chỉ dừng lại ở bề ngoài của sự vật hay người khác:
“Đừng
tưởng quan chức là rồng
Đừng tưởng dân chúng là không biết gì
Đời người lúc thịnh, lúc suy
Lúc khỏe, lúc yếu, lúc đi, lúc dừng
Bên nhau chua ngọt đã từng
Gừng cay, muốn mặn, xin đừng quên nhau
Ở đời nhân nghĩa làm đầu
Thủy chung sau trước, tình sâu, nghĩa bền
Ai nhờ nhớ lấy đừng quên”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét