Thứ Tư, 27 tháng 5, 2015

Trần Nợ, Nợ Trần


Chu Thập
2.9.11


Kể từ khi tổng thống Hoa kỳ Barack Obama và Quốc hội nước này đạt được thỏa thuận cho phép nâng nợ quốc gia lên tới mức “đụng trần” nhà, tiếng Việt lại có thêm một từ mới là “Trần nợ” (debt ceiling). Thuật ngữ này xem ra chẳng có gì xa lạ với người Việt nam, bởi lẽ đối với chúng ta “nợ trần, vay trả trả vay” là một trong những triết lý sống nền tảng. Đã vào đời bằng tiếng khóc là mang theo cả một gánh nợ trần phải trả không bao giờ hết.
Lúc nhỏ, một trong những hình ảnh đầu tiên mà ký ức non dại của tôi đã ghi nhận được có lẽ là cảnh vay nợ của người nghèo. Ở quê nghèo của tôi, trừ một vài gia đình tương đối khá giả, đa số những người nông dân quanh năm chân lấm tay bùn đều phải chạy cơm chạy gạo từng ngày, cho nên cái cảnh ăn đong, vay mượn là chuyện thường ngày ở huyện. Bà chủ quán trước nhà tôi thỉnh thoảng lại réo gọi và chửi rủa inh ỏi, vì ai đó đã “ăn chịu” hay mua chịu hết mấy cuốn sổ mà không chịu trả. Từ gạo đến mắm muối, rượu đế và ngay cả giấy bút học sinh, cái gì cũng có thể mua chịu. Tội nghiệp nhứt là những nhà phải bán lúa non: vừa mới gieo mạ hay mới cấy đã phải vác thúng đi đong lúa của một ông phú hộ nào đó để có cái ăn, đến khi gặt hái phải đong trả lại cả vốn lẫn lời, thành ra chẳng còn lấy một hạt lúa cho vào bồ. Nhiều người, gặp cảnh mất mùa không trả nổi đành trơ mặt ra mà quịt nợ thôi. Cũng có những người vì một chút sĩ diện, đành phải đi “trốn nợ” một thời gian, chờ đến khi kiếm được chút vốn mới dám vác mặt về làng để thanh toán nợ nần và làm lại cuộc đời.
Cha tôi đã một lần phá sản vì theo Việt minh. Tôi vẫn còn nhớ như in, chỉ sau một đêm và một ngày, nguyên một bầy trâu bò mấy chục con bị lính Tây bắn gục, vài mẫu mía tây làm đường bị đốt sạch. Cũng may, nhờ tài vun vén của mẹ tôi, cha tôi cũng giải quyết xong nợ nần và nhà tôi biết thế nào là “liệu cơm gắp mắm”.
Nói chung, hình như người Việt nam nào cũng sợ cảnh nợ nần. Ra được nước ngoài, sau khi thanh toán được nợ vượt biên, ai cũng mong được thảnh thơi để thực sự hưởng nếp sống văn minh và tự do. Ngoại trừ một số ít “nghèo mà ham” bắt chước người Tây phương cứ “cà” thẻ tín dụng cho đến “trần nợ”, đa số người Việt hải ngoại đều có chung một ước mơ: mua đứt một căn nhà, trả “cash” một chiếc xe, cật lực làm ăn, thắt lưng buộc bụng để trả hết nợ ngân hàng càng nhanh càng tốt hoặc chủ trương có bao nhiêu xài bấy nhiêu mà thôi.  Bị xiết nợ, bị đuổi ra khỏi nhà đến độ chỉ còn biết ra “khách sạn ngàn sao” là chuyện ít xảy ra cho người Việt hải ngoại.
Nếu có nợ chăng thì người Việt hải ngoại lại nghĩ đến những món nợ khác. “Ví chăng duyên nợ ba sinh. Làm chi đem thói khuynh thành trêu ngươi” (Truyện Kiều - Nguyễn Du). Vì duyên nợ ba sinh cho nên dù có cơm không lành canh không ngọt, vợ chồng cũng đành phải chấp nhận nhau, chịu đựng nhau cho đến hết đời. Vì biết mình phải trả cho hết món nợ đời ấy mà nhiều người đã gắng gượng để sống cho trọn tình trọn nghĩa với nhau.
Nếu chẳng may không tìm được hạnh phúc gia đình, thì người đàn ông Việt nam cũng chỉ còn biết than thở: “con là nợ, vợ là oan gia”.
Khi vợ chồng phải đi đến chuyện hết duyên hết nợ, thường thì không phải là vì họ đã trả hết duyên nợ cho nhau mà vì một trong hai người đã lỡ ký giấy nợ với mấy ông bà thần casino, thần ve chai hay gần đây là thần “tình yêu” ở trong nước.
Xét cho cùng, với người Việt nam, đã sống là có “nợ nần”. Không nợ tiền nợ bạc, thì cũng nợ tình nợ nghĩa.
Ở Miền Nam, đặc biệt tại huyện Gò Dầu, Tây ninh, có một loại giây leo có củ mà người ta thường gọi là củ “nần”. Đây là một loại củ có chất độc có thể làm chết người, cho nên trước khi luộc, người ta phải ngâm muối và rửa đi rửa lại nhiều lần. Sau đó còn phải mang ra phơi nắng cho thật khô để dành ăn dần.  Củ nần có thể nấu chung với gạo tẻ hoặc nếp, chiên với mỡ hành hay trộn với thịt, lạp xưởng, rau nấm hay hải sản. Người ta cũng có thể chế biến củ nần thành một món chè ngọt nấu với nước dừa, đậu phụng. Nhưng trước khi trở thành một món ăn chơi, thì ngày xưa, gặp thời đói kém, người dân địa phương đã từng sống cầm hơi nhờ củ nần. Người Chăm và người Kinh đã từng được cứu đói nhờ củ nần. Có lẽ đây là lý do mà hễ nói đến nợ, cha ông chúng ta ngày xưa đều nói đến “nần”.
Cây cối mà con người còn mang nợ, huống chi là con người với nhau. Người viết tạp ghi nổi tiếng nhứt tại Hoa kỳ hiện nay là Huy Phương đã nói đến vô số nợ mà chúng ta đang mang: “Những người bỏ cuộc năm 1975 nợ những người ở lại. Những cấp lãnh đạo cũ còn nợ nhân dân, nợ đồng bào ruột thịt. Không thể tuyên bố dễ dàng rằng “tôi (một cấp lãnh đạo cũ) không có trách nhiệm gì đối với những thuyền nhân bỏ nước ra đi” trong khi trước kia đứng ra lãnh đạo đất nước ông đã nhận trách nhiệm trước quốc dân.
Người sống nợ người chết. Người ngoài tù nợ nguời trong lao lung. Người đi nợ người ở. Người đến trước nợ người đến sau. Phải chăng cần nói thêm người lành lặn nợ người khuyết tật, người giàu nợ người nghèo, người thanh nhàn nợ người vất vả. Chữ nợ bao hàm sự đùm bọc, lo nghĩ và trách nhiệm của kẻ sĩ, của con người có lòng nhân ái đối với đồng bào, đồng loại.
Chúng ta sinh ra đời là đã nợ ơn cha mẹ, tổ tiên. Kẻ hậu thế nợ tiền nhân, nhớ ơn và gìn giữ những gì tiền nhân đã xây dựng và ra công bồi đắp. Và sau đó là món nợ của những nguời cùng thời với nhau.” (Huy Phương, Nước Mỹ lạnh lùng, Nam Việt, Cali. Hoa kỳ 2006, trg 118-119)
Cuộc đời “có vay có trả”, cho nên bất cứ nghĩa cử nào cũng đều được đáp trả một cách nào đó. Peter Godwin là một ký giả nổi tiếng của báo “The London Sunday Times”. Ông có duyên nợ với một làng nhỏ tại Phi Châu. Mặc dù là công dân Anh quốc, Peter và gia đình ông đã sinh sống tại Rhodesia (nay là Zimbabwe) khi ông còn nhỏ. Tại đây, là một bác sĩ được một Giáo hội tin lành cử sang truyền đạo, mẹ ông đã khởi xướng một chương trình chủng ngừa cho người dân địa phương. Dưới sự giám sát của bà, hàng ngàn người đã được chủng ngừa chống lại bệnh lao, đậu mùa và các thứ bệnh phổ thông khác tại các nước nghèo. Cậu bé Peter thường đi theo mẹ để phụ giúp trong công việc chủng ngừa.
Thập niên 1970, cuộc nội chiến tại Rhodesia buộc gia đình Godwin  phải trở về Anh quốc và ông theo học nghề báo chí. Năm 1986, báo The London Sunday Times gởi ông trở lại Rhodesia để làm phóng sự về cuộc đụng độ giữa chính phủ theo Marxit và quân nổi dậy. Trong lúc theo dõi cuộc xung đột tại Rhodesia, Peter Godwin quyết định làm một chuyến sang Mozambique là nơi mà các ký giả ngoại quốc không được phép đặt chân đến. Trong lúc tìm đường sang nước này, ông bị một nhóm phiến quân bắt giữ và đưa về cứ địa của họ. Tại đây, ông được mang đến trình diện với viên chỉ huy của lực lượng nổi dậy. Tình cờ ông nghe viên chỉ huy nói chuyện với một thuộc cấp bằng thứ thổ ngữ mà ông đã từng học và nói lúc còn nhỏ. Viên chỉ huy ngạc nhiên vô cùng khi thấy một ký giả ngoại quốc nói thông thạo tiếng nói của mình. Peter Godwin liền kể lại thời thơ ấu của ông tại Rhodesia và nhắc đến tên mẹ ông. Vừa nghe tên nữ bác sĩ Godwin, nét mặt hung tợn của viên chỉ huy liền hoàn toàn thay đổi. Ông vén tay áo lên và chỉ cho ký giả Peter Godwin thấy vết sẹo do việc chủng ngừa để lại. Thì ra chính mẹ của Peter Godwin là người đã từng chích ngừa cho viên chỉ huy này khi ông còn là một đứa bé. Chính ông cũng đã nhận một viên thuốc có bọc đường từ chính tay của cậu bé Peter Godwin.
Vài phút trước đây, ký giả người Anh này bị đối xử như một kẻ thù. Giờ đây, ông đã trở thành một thượng khách của quân nổi dậy. Họ đã đưa ông trở lại nơi ông bị bắt giữ một cách an toàn và còn chụp hình chung với ông trước khi trở lại cứ địa. (William J.Bausch, The Word in and out of Season, Paulines Ed. 2001, trg 175-176)
Câu chuyện đền ơn trả nghĩa giữa gia đình của thủ tướng Winston Churchill và người phát minh ra thuốc Penicillin lại càng cảm động hơn.
Ngày nọ, một cậu bé con của một nông dân nghèo tại Scotland đang làm việc trên một cánh đồng. Nghe có tiếng kêu cầu cứu, cậu liền bỏ cuốc xẻng để chạy đến. Tại đây, cậu thấy một đứa bé khác cũng trạc tuổi mình đang chới với trong một vũng bùn. Cậu liền lao xuống để kéo cậu bé xa lạ ra khỏi vũng lầy.
Ngày hôm sau, gia đình người nông dân nghèo thấy có một chiếc xe hơi sang trọng dừng lại trước cửa nhà mình.
Từ trên xe bước xuống, người quý tộc trao cho bác nông dân một số tiền và nói: “Tôi xin được đền ơn cho ông, vì con trai ông đã cứu con tôi”. Nhưng người nông dân nghèo trả lời: “Thưa ngài, tôi không thể nhận sự đền đáp bởi việc con tôi đã làm”.
Lúc đó, cậu con trai của người nông dân cũng từ ngoài đồng trở về. Biết đây là người đã cứu sống con trai mình, nhà quý tộc liền đề nghị giúp đỡ cho cậu được học hành tử tế. Người nông dân nghèo không thể từ chối sự đền đáp ấy.
Nhờ sự giúp đỡ của người quý tộc, con trai của người nông dân nghèo đã không những tốt nghiệp trung học, mà còn ghi danh vào trường y khoa St Mary’s Hospital Medical School ở London và về sau được cả thế giới biết tên, vì đã khám phá ra thuốc Penicillin. Tên của ông là Sir Alexander Fleming.
Về sau, con trai của nhà quý tộc đã từng giúp đỡ Sir Alexander Fleming ăn học thành tài và thành danh, bị sưng phổi. Một lần nữa, ông đã được cứu sống và được cứu sống bằng thuốc Penicillin.
Tên của nhà quý tộc là Sir Randolph Churchill và tên người con trai của ông là Sir Winston Churchill, vị thủ tướng Anh nổi tiếng nhất trong thời đệ nhị thế chiến (nguồn Internet).
Cuộc sống con người được được “làm đẹp” và có ý nghĩa nhờ những nghĩa cử ơn nghĩa, những “nợ nần” như thế. Tuy nhiên, trong cuộc sống, nghĩa cử có khi không thiếu mà lòng biết ơn thì lại trở thành quý hiếm. “Vô ơn” là một tiếng rủa sả nặng nề nhất mà đôi khi chúng ta cũng đành phải thốt lên khi một nghĩa cử của mình không được nhìn nhận và đáp trả. Sách Tin Mừng có thuật lại việc Chúa Giêsu chữa lành 10 người mắc bệnh phung cùi và bảo họ đi trình diện với vị chức sắc tôn gíao thời đó. Nhưng sau đó, chỉ có một người duy nhất trở lại để cám ơn Ngài và người này lại không phải là người Do thái, tức không phải là người “có đạo”. Chúa Giêsu cũng đành phải ngao ngán thốt lên: “Há chẳng phải cả 10 người được chữa lành sao, mà chỉ có người “ngoại” này trở lại cám ơn”.
Đời là thế. Số người “vô ơn” chiếm đến 90 phần trăm! Người “làm ơn” không được “trả ơn” đã đành, mà rất thường còn bị “trả oán” là khác.
Vô ơn suy ra cho cùng chẳng khác nào một hình thức “quịt nợ”. Mà đã là một người quịt nợ thì không thể nào xứng đáng để được tiếp tục “mắc nợ”. Nợ tiền bạc tuy lắm khi khó trả nhưng vẫn dễ “thanh toán” hơn những món nợ khác. Chẳng hiểu sao càng ngày tôi càng nhìn thấy mình “nợ nần chồng chất”, nhìn đâu tôi cũng thấy nợ. Nếu không có những người “chủ nợ” tốt lành cho tôi “vay” từ thuở lọt lòng đến hôm nay  thành một “ông già” thì tôi không biết mình có được như ngày nay hay không.
Ngày xưa ông bà thường nói: người sống đống vàng. Nhưng với cái nhìn hôm nay của tôi, tôi phải sửa thành: người sống đống nợ: ông hoàng bà chúa nợ thần dân, người da trắng nợ người nô lệ da đen, thực dân nợ các nước thuộc địa và thổ dân, hậu bối nợ tiền bối, các nước phát triển nợ các nước nghèo...Cuối cùng, ai cũng là con nợ và ai cũng có cơ hội là chủ nợ. Và càng “nợ nần” nhau nhiều thì càng gia tăng quan hệ mật thiết giữa các cá nhân trong cộng đồng nhân loại. Đây là món nợ tốt duy nhứt mà tôi thấy là cần thiết cho cuộc sống.
Về điểm này, tôi thấy lời dạy của một trong những tác giả đầu tiên trong lịch sử Kitô giáo là thánh Phaolô thật chí lý. Vị thánh này khuyên các tín hữu: “Anh em chớ mắc nợ nhau điều gì ngoài món nợ tương thân tương ái.” (Rm 13, 8)
Những “chủ nợ” trực tiếp của tôi không còn mấy người: Cha mẹ không còn, người thân cũng khuất hoặc vì hoàn cảnh cũng chẳng còn dịp gần gũi. Nhưng với cái nhìn “toàn cầu” tôi tin rằng, tôi vẫn có thể trả nợ một cách gián tiếp qua những người không quen biết khác đang cần “vay nợ”. “Lọt sàng xuống nia” thôi chứ chẳng mất đi đâu mà sợ.










Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét