Thứ Hai, 11 tháng 5, 2015

Miếng khi Đói, Gói khi No


Chu Thập
2.8.11



Trong các thứ cây nhiệt đới trồng trong ngôi vườn mà tôi gọi là “quê hương bỏ túi” của tôi,  tôi “thương” cây chuối nhứt. Tôi nói “thương” là bởi vì tôi có cảm tưởng như cây cối cũng có một “linh hồn”. Thi sĩ Lamartine của Pháp đã chẳng hỏi: “Hỡi các vật vô tri, các ngươi có một “linh hồn” không mà sao ta cứ mãi quyến luyến với các ngươi?”  Các cụ ở quê tôi thường giải thích rằng cây nào trồng gần nhà, được chăm sóc và “nói chuyện” với, thì thường mau lớn và chóng sinh hoa kết trái. Điều này thì xem ra chẳng có giá trị đối với mấy cây nhiệt đới đang có mặt trong vườn của tôi. Như cây chuối chẳng hạn, ở quê tôi, chỉ cần trồng độ 6 tháng hay tối đa một năm là đã thấy ra buồng. Còn nơi tôi đang ở, cây chuối được tôi trồng và “thương”  đúng 3 năm, mà nay mới nhú lên một cái lá ngắn báo hiệu sắp trổ buồng. Nhà tôi, tuy ăn mặn, nhưng lại thương cây cối một cách khác thường. Thấy cây chuối không lớn nổi, nhà tôi cứ trách tôi là chỉ vì muốn có hình ảnh quê hương mà đi “abuse” (ngược đãi) các thứ cây nhiệt đới. Mà đúng vậy, mùa đông, cứ nhìn các tàn lá chuối rách tả tơi và vàng úa, tôi cũng cảm thấy xót xa.
Nhìn cây chuối trong vườn đã thấy xót xa, ra siêu thị nhìn giá chuối cứ ở trên cao ngất ngưởng, tôi lại càng thấy “tê tái” hơn. Kể từ khi xảy ra cơn bão “Yasi” tại Queensland hồi đầu năm, vị giác của tôi hầu như đã quên hẳn mùi vị của chuối. Sinh ra và lớn lên ở đồng quê, tôi thường ăn chuối thế cơm. Cũng như dừa, chuối có tính đa dụng. Trái chín thì để tráng miệng. Trái ương ương luộc hay làm chuối xào dừa ngon hết sẩy. Chuối xanh hầm chung với ốc và lá lốt theo kiểu Bắc Kỳ cũng thật hấp dẫn. Bắp chuối thì còn đa dụng hơn: “um” với cá trê, cá lóc, ếch...hay bóp gỏi gà gỏi vịt thì cũng hết ý. Lá chuối xanh dùng để gói đủ thứ bánh hay giò lụa, giò thủ. Còn lá khô cũng dùng vào đủ thứ việc, kể cả “đi đồng”. Thân chuối khi hạ xuống cũng “xài” tuốt: bằm ra trộm cám cho vịt ăn hay nấu chín để nuôi heo. Sau 75, một số người đi kinh tế mới có cầm hơi qua ngày được là cũng nhờ củ chuối!
Tôi “thương” cây chuối là vậy. Nhưng từ nửa năm nay, mỗi lần đi chợ, tôi chỉ biết đứng nhìn và ăn hàm thụ. Cách đây mấy hôm, không chống trả được cơn “cám dỗ”, tôi “dụ” nhà tôi mua ba trái chuối “lady finger”. Tôi chả hiểu tại sao lại gọi là “ngón tay quý bà”, trông nó “ô dề” và có màu vàng như giống chuối sứ hay chuối “mốc” của miền Trung tôi chứ có búp măng gì đâu. Mua rồi tôi mới thấy hối hận: giá mỗi trái gần 3 Úc kim! Cứ mỗi lần bóc vỏ một trái, tôi lại tính nhẩm:  giá của một trái chuối mà tôi đang ăn có thể nuôi sống nguyên một gia đình đông con ở nhà quê Việt nam ít nhứt là một ngày.
Nhưng mấy ngày qua, tôi không nghĩ đến người thân nghèo còn ở Việt nam, mà lại hướng tâm trí đến hàng triệu triệu người đang lâm cảnh đói khổ vì hạn hán tại Miền Đông Phi Châu, còn được gọi là Vùng Sừng Phi Châu. Nạn hạn hán bị xem là tệ hại nhứt từ 60 năm nay đã khiến cho cả chục triệu người phải rời thôn làng. Có người, trên đường đi lánh nạn, đã đau lòng gạt nước mắt chôn vội người thân gục ngã vì yếu nhược. Hình ảnh của những bà mẹ tay bồng những trẻ thơ da bọc xương còn đang bú mớm không thể không làm cho mắt tôi xốn xang. Thông thường  “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, riêng tôi cứ ăn một trái chuối là thấy như đang phạm tội, không phải tội hái trộm trái cây như lúc còn nhỏ ở quê nhà, mà là tội “ăn không nghĩ đến người khác”. Ở đây, không có chuối thì còn bao nhiêu thứ trái cây khác. Giá cả có lên đôi chút, nhưng có người Úc nào nghèo đến độ không ăn “nổi” trái cây. Vấn đề là người ta có biết “liệu cơm gắp mắm” không thôi. Nếu biết mua sắm theo kiểu “mùa nào thức nấy” và nhứt là biết tiết kiệm, thì chẳng có người Úc nào thiếu ăn hay chết đói, mà còn có dư để gởi giúp những người đang đói khổ trên khắp thế giới. Người Việt mình, dù có khách đến nhà thình lình nhằm bữa ăn, chỉ cần thêm chén thêm đũa là xong ngay. Câu nói: “Miếng khi đói bằng gói khi no” thật là thâm thúy. Thế giới chẳng bao giờ đông miệng ăn đến nỗi thiếu lương thực. Thiếu chăng là thiếu tấm lòng quảng đại, tình liên đới và sự chia sẻ mà thôi.
Đứng trước trình trạng kém phát triển hay thiên tai dẫn đến đói kém, sự ích kỷ của con người thường được biện hộ bằng chủ thuyết dân số. Người ta trút hết mọi thứ tội vạ lên sự gia tăng dân số. Dù đã cũ rích và cũng chẳng được kiểm chứng, chủ thuyết này vẫn cứ được nại đến như một thứ bùa hộ mạng cho phát triển.
Năm 1798, một tu sĩ người Anh tên Thomas Malthus đã cho xuất bản một cuốn sách có tựa đề “Khảo sát về nguyên tắc dân số”. Theo ông thày dòng này, số phận tương lai của nhân loại gắn liền với hai thứ: một là lương thực hai là tính dục. Ông cho rằng dân số thế giới gia tăng theo cấp số nhân, trong khi nguồn thực phẩm chỉ gia tăng theo cấp số cộng, do đó sẽ đến một lúc trái đất không còn đủ khả năng để nuôi sống nhân loại. Lúc đó, cuộc cách mạng kỹ nghệ đang mở ra cánh cửa lạc quan cho thế giới, thì Malthus lại vẽ ra một bức tranh chẳng mấy sáng sủa.
Nhìn vào thế giới ngày nay, nhiều người cho rằng Malthus quả là người nhìn xa thấy rộng. Chưa bao giờ giá thực phẩm lên cao cho bằng ngày nay. Số người đói ăn cũng ngày càng gia tăng. Cứ mỗi lần có hạn hán hay lụt lội ở đâu đó thì viễn tượng nạn đói lại càng đe dọa hơn. Trên trái đất này, mỗi đêm vẫn còn khoảng Chín Trăm Hai Mươi Lăm TRIỆU người đi ngủ với cái bụng trống và mỗi ngày lại có thêm 219.000 người cần được nuôi ăn. Trong khi đó đất đai, nước uống và các tài nguyên dùng để sản xuất lương thực thì lại có giới hạn.
Thực ra, từ khi Malthus “chế” ra trái bom dân số đến nay, dân số thế giới đã gia tăng gấp 7 lần, nhưng việc sản xuất nông phẩm vẫn đủ để cho nhân loại sống. Theo tạp chí Time số ra ngày 25 tháng 7 vừa qua, nếu có hàng triệu người trên thế giới bị chết đói, thì nguyên nhân không phải vì thiếu lương thực cho bằng chính trị. Hai triệu người miền Bắc Việt nam chết đói năm Ất dậu (1945) không vì thiếu lương thực cho bằng chính sách hà khắc của quân phiệt Nhựt cộng với chủ trương “tiêu thổ kháng chiến” của Việt Minh. Người dân trong các nước cộng sản có chết đói hàng loạt chắc chắn không phải vì đất hẹp người đông mà vì chính sách kinh tế “ngu đần” của chế độ.
Nói như thế không có nghĩa là phủ nhận thực tại của cuộc khủng hoảng lương thực hiện nay trên thế giới. Nhưng nguyên nhân của cuộc khủng hoảng lương thực chắc chắn không phải là nạn nhân mãn. Theo giải thích của tạp chí Time, trong niên khóa 2010-2011, lượng ngũ cốc mà thế giới tiêu thụ cao hơn số cung, khiến cho giá cả tăng một cách đáng kể. Tổ chức Lương Nông Thế Giới (FAO) cho biết: hiện nay, trên toàn thế giới, giá lương thực tăng 39% so với một năm trước đây. Số lượng ngũ cốc dự trữ đã hạ giảm so với nhu cầu của nhân lọai.
Dĩ nhiên, thời tiết xấu là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng khan hiếm thực phẩm. Nhưng nhìn xa hơn, chính sự hoán chuyển sức mạnh kinh tế từ Tây sang Đông và việc tìm kiếm nguồn năng lượng sạch hơn cũng đang tạo ra tình trạng mất cân bằng về sự tiêu thụ thực phẩm. Các dự án của Tổ chức Lương Nông Thế Giới dự báo rằng vào năm 2050, sản xuất lương thực phải tăng 70% mới đáp ứng với nhu cầu gia tăng nhân số. Ông Ngozi Okonjo Iweala, giám đốc điều hành Ngân Hàng Thế Giới cảnh cáo: “Vấn đề an toàn thực phẩm cũng là vấn đề an ninh thế giới”.
Theo tạp chí Time, điều mỉa mai là cội rễ của cuộc khủng hoảng lương thực lại nằm trong chính bước nhảy vọt về kinh tế của nhân loại. Nói cách khác, chính vì thoát khỏi nghèo đói, mà các nước đang phát triển lại tiêu thụ lương thực nhiều hơn. Những người nghèo tại những nước như Trung Quốc, Ấn độ, Brasil và những nền kinh tế đang bùng nổ trên thế giới ngày càng gia tăng sự tiêu thụ lương thực. Trong vòng 30 năm qua, mức tiêu thụ ngũ cốc tại các nước đang phát triển đã tăng 80%. Nhưng quan trọng hơn, những “người giàu mới” tại Trung quốc, Ấn độ và Brasil dùng nhiều thịt và các món ăn trước kia chỉ dành cho người khá giả. Trong ba thập niên vừa qua, lượng thịt mà mỗi đầu người tiêu thụ đã tăng gấp hai. Điều này dĩ nhiên tạo thêm áp lực cho nông nghiệp. Để có đủ heo bò cung cấp cho nhu cầu của dân chúng, ngũ cốc trước đây dành cho con người nay được dùng vào chăn nuôi. Tại Hoa kỳ chẳng hạn, phải mất đến 6 kg ngũ cốc mới có thể sản xuất được một ký thịt bò. Đó là chưa kể đến hàng ngàn lít nước kèm theo.
Một “thủ phạm” nữa chính là nỗ lực giảm thiểu ô nhiễm: Tại Hoa kỳ, năm 2000, chỉ có 6% số bắp thu hoạch được sử dụng để sản xuất Ethanol, dùng cho vào xăng dầu để giảm bớt chất chì. Nay có đến 40% lượng bắp thu hoạch được dùng để sản xuất chất này. Với lượng bắp này, có ít nhứt 350 triệu người được nuôi sống. (x. Time 25/7/11)
Một vài dữ liệu trên đây cho thấy rằng trái đất không bao giờ cạn kiệt đến nỗi không sản xuất đủ lương thực cho nhân loại. Vấn đề chính là tổ chức sản xuất và nhứt là thay đổi cách tiêu thụ của con người. Nói chung, nếu mọi người ở những nước giàu biết thay đổi cách sống của mình, thì chắc chắn lương thực sẽ chẳng bao giờ thiếu cho những người đói khổ ở các nước nghèo. Tại các nước nghèo, con người đói lương thực. Thê thảm hơn, ở các nước giàu, trong khi người ta dư dật lương thực nhưng lại thường “đói” nghèo tình liên đới, sự cảm thông và tấm lòng biết san sẻ.
Xét cho cùng, giải pháp cho vấn đề lương thực của thế giới không chỉ nằm trong kỹ thuật, mà trong chính trái tim của con người.
Năm 1925, một luật sư kiêm ký giả trẻ người Pháp tên là Raoul Follereau đã cùng người vợ mới cưới đi hưởng tuần trăng mật tại Phi Châu. Tại đây, khi xe bị tắt máy giữa đường trong rừng già, lần đầu tiên ông gặp gỡ với một hạng người bị xã hội đẩy ra bên lề và phải sống vất vưởng trong rừng: đó là những người phung cùi. Cuộc gặp gỡ đã thay đổi hoàn toàn hướng đi của ông. Trở về Pháp, ông đã viết sách để kêu gọi thế giới quan tâm đến số phận của những con người khốn khổ này. Hội “Những người bạn của người phung cùi” đã ra đời và đã thay đổi được số phận khốn cùng của không biết bao nhiêu người phung cùi tại Phi Châu và trên khắp thế giới.
Một sự đổi đời như thế cũng đã xảy ra cho vợ chồng tỷ phú Melinda và Bill Gates. Bà Gates chia sẻ như sau: “Khi mới lấy nhau, tôi và Bill định khi về già sẽ chia sẻ tiền bạc với người khác. Lần đầu tiên chúng tôi đến Phi Châu là nhân một chuyến đi săn năm 1993. Chúng tôi không thể nào tận hưởng thiên nhiên hoang dã vì cảnh tượng mọi người đi chân đất, phụ nữ phải vừa bế con vừa xách nước đi hàng cây số và bởi lời mời từ một bộ lạc về việc dự buổi lễ cắt âm vật phụ nữ. Sau đó về nhà, chúng tôi tìm đọc báo cáo về phát triển thế giới năm 1993 và không khỏi giật mình. Trẻ con đang chết hàng loạt chỉ vì căn bệnh tiêu chảy và những loại bệnh cơ bản mà trẻ con ở nước chúng tôi đã được chủng ngừa....Chúng ta có khinh rẻ mạng sống của người Phi Châu hơn mạng sống của chúng ta không? Bill và tôi cho rằng không có sinh linh nào mang giá trị hơn hay kém hơn so với sinh linh khác. Chính sự công bằng này là lý do để quỹ từ thiện của chúng tôi hoạt động”.
Quỹ này đã chính thức khai trương năm 2000 và vợ chồng ông Gates đã cam kết trao tặng hết 95% tài sản khổng lồ của họ hiện ước tính khoảng 46 tỷ Mỹ kim cho Quỹ này.
Tôi biết mình không có đủ tài trí và năng lực của một Raoul Follereau hay sự giàu có của vợ chồng tỷ phú Gates. Nhưng tôi tin rằng cũng như họ, đứng trước sự nghèo khổ của người khác, nhân cách của tôi sẽ giảm đi nếu trái tim tôi không biết rung động và lòng bàn tay của tôi không chịu mở ra. Dù chỉ nhịn ăn một trái chuối để chia sẻ, tôi cũng đã góp phần xoa dịu nỗi đói khổ ở một nơi nào đó và dĩ nhiên cũng cảm nhận được một niềm vui lớn.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét